Người bị truất quyền hưởng di sản thừa kế? Người bị bác quyền hưởng di sản thừa kế?
Quyền thừa kế di sản từ xưa đến nay luôn là một vấn đề mà hàu như ai cũng quan tâm và nhắc đến bởi lẽ đó là tài sản do nhân thân của mình để lại cho người còn sống. Người còn sống khi nhận thừa hưởng di sản phải thực hiện các quyền và nghĩa vụ đối với tài sản để lại. Thừa kế di sản được
Theo quy định của pháp luật thì quyền thừa kế là cá nhân có quyền lập di chúc để định đoạt tài sản của mình; để lại tài sản của mình cho người thừa kế theo pháp luật; hưởng di sản theo di chúc hoặc theo pháp luật. Người thừa kế không là cá nhân có quyền hưởng di sản theo di chúc.
1. Người bị truất quyền thừa kế
Theo quy định tại Điều 626 BLDS quy định về quyền của người lập di chúc:
“Người lập di chúc có quyền sau đây:
1. Chỉ định người thừa kế; truất quyền hưởng di sản của người thừa kế.
2. Phân định phần di sản cho từng người thừa kế.
3. Dành một phần tài sản trong khối di sản để di tặng, thờ cúng.
4. Giao nghĩa vụ cho người thừa kế.
5. Chỉ định người giữ di chúc, người quản lý di sản, người phân chia di sản.”
Như vậy, truất quyền hưởng di sản của người thừa kế là một trong các quyền mà người để lại di sản có thể thực hiện theo luật định. Việc truất quyền thừa kế của một người được người để lại di sản ghi nhận trong nội dung di chúc và không phải giải thích lý do.
Vậy, người bị truất quyền thừa kế trong di chúc là không được hưởng di sản thừa kế nhưng khi có yêu cầu hưởng thừa kế thì theo quy định của pháp luật người bị truất quyền được hưởng thừa kế khi giải quyết thừa kế theo pháp luật nếu thuộc một trong các trường hợp sau:
Điều 644 BLDS quy định về người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc
“1. Những người sau đây vẫn được hưởng phần di sản bằng hai phần ba suất của một người thừa kế theo pháp luật nếu di sản được chia theo pháp luật, trong trường hợp họ không được người lập di chúc cho hưởng di sản hoặc chỉ cho hưởng phần di sản ít hơn hai phần ba suất đó:
a) Con chưa thành niên, cha, mẹ, vợ, chồng;
b) Con thành niên mà không có khả năng lao động.
2. Quy định tại khoản 1 Điều này không áp dụng đối với người từ chối nhận di sản theo quy định tại Điều 620 hoặc họ là những người không có quyền hưởng di sản theo quy định tại khoản 1 Điều 621 của Bộ luật này.”
Theo quy định trên thì đối với những đối tượng là con chưa thành niên, cha, mẹ, vợ, chồng, con thành niên mà không có khả năng lao động thì sẽ được hưởng di sản khi không được người lập di chúc cho hưởng di sản hoặc chỉ cho hưởng phần di sản ít hơn hai phần ba suất của một người thừa kế theo pháp luật.
Bên cạnh đó khoản 2 cũng quy định rõ nội dung trên không áp dụng đối với những người từ chối nhận di sản, những người không có quyền hưởng di sản. Ngoài 2 đối tượng này thì không còn ai bị hạn chế về việc được nhận di sản theo quy định tại Điều 644 BLDS; như vậy có thể hiểu người bị truất quyền thừa kế vẫn có quyền được hưởng di sản nếu thuộc trường hợp quy định tại khoản 1.
Như vậy, nếu không thuộc một trong các trường hợp nêu trên kết hợp với việc bị truất quyền hưởng di sản trong di chúc thì sẽ không được hưởng di sản.
Người bị truất quyền thừa kế thì có được hưởng thừa kế theo hàng thừa kế thứ nhất nếu có tranh chấp hoặc yêu cầu hưởng di sản
Hàng thừa kế được xem xét khi phân chia thừa kế theo pháp luật, quy định thứ tự chi tiết tại Điều 651 BLDS. Những người thừa kế cùng hàng được hưởng phần di sản bằng nhau. Tại khoản 3 Điều 651 BLDS quy định: “Những người ở hàng thừa kế sau chỉ được hưởng thừa kế, nếu không còn ai ở hàng thừa kế trước do đã chết, không có quyền hưởng di sản, bị truất quyền hưởng di sản hoặc từ chối nhận di sản”.
Từ việc pháp luật quy định về thứ tự hàng thừa kế nhận di sản trước sau như này, có thể nhận thấy có những người thuộc hàng thừa kế nhưng vẫn không được hưởng di sản gồm: người thừa kế đã chết, người thừa kế không có quyền hưởng di sản, người thừa kế bị truất quyền hưởng di sản, người thừa kế từ chối nhận di sản.
Trường hợp bị truất quyền hưởng di sản thừa kế:
Các trường hợp bị truất quyền thừa kế thường thuộc một trong hai trường hợp là truất quyền thừa kế theo di chúc và truất quyền thừa kế theo pháp luật. Sau đây là quy định chi tiết của mỗi trường hợp.
Trường hợp bị người lập di chúc truất quyền thừa kế
Nguyên nhân bị truất quyền thừa kế theo di chúc là do người lập di chúc tự chỉ định người không được hưởng di sản. Có thể là do mâu thuẫn cá nhân, hoặc người thừa kế đó không tạo được niềm tin từ người lập di chúc.
Trường hợp bị truất quyền thừa kế theo pháp luật
Trường hợp này có thể hiểu là việc bị tước quyền thừa kế tài sản của người chết. Nguyên nhân bị truất quyền thừa kế theo pháp luật là do người thừa kế phạm những lỗi sau:
– Bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng, sức khoẻ ngược đãi nghiêm trọng, hành hạ người để lại di sản;
– Có hành vi xâm phạm nghiêm trọng danh dự, nhân phẩm của người lập di chúc;
– Vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ nuôi dưỡng người để lại di sản;
– Bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng người thừa kế khác nhằm chiếm đoạt tài sản mà người thừa kế đó có quyền hưởng;
– Có hành vi lừa dối, cưỡng ép hoặc ngăn cản người để lại di sản trong việc lập di chúc;
– Thực hiện giả mạo, sửa chữa di chúc, huỷ, che giấu di chúc nhằm hưởng di sản trái với ý chí của người để lại di sản.
Tuy nhiên nếu người để lại di sản biết hành vi này và vẫn đồng ý cho họ hưởng di sản thì phải ghi rõ ràng trong di chúc.
Như vậy, thông qua những phân tích trên thì người bị truất quyền thừa kế thì sẽ không được hưởng thừa kế theo hàng thừa kế thứ nhất và không được thừa kế theo di chúc do bị hạn chế quyền nhận di sản đó là truất quyền.
2. Người bị bác quyền thừa kế
Người thừa kế bị bác bỏ quyền thừa kế là người đã được chia di sản của người chết để lại nhưng sau đó lại có căn cứ để xác định họ là người không được quyền hưởng di sản theo quy định tại khoản 1, Điều 621 Bô luật dân sự 2015 hoặc họ không phải là người thừa kế của người để lại di sản. Bao gồm những người sau đây:
– Người thừa kế đã nhận di sản nhưng có căn cứ để xác định họ là người không thuộc một trong các trường hợp quy định tại khoản 1, Điều 621
+ Người bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe hoặc về hành vi ngược đãi nghiêm trọng, hành hạ người để lại di sản, xâm phạm nghiêm trọng danh dự, nhân phẩm của người đó;
+ Người vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ nuôi dưỡng người để lại di sản;
+ Người bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng người thừa kế khác nhằm hưởng một phần hoặc toàn bộ phần di sản mà người thừa kế đó có quyền hưởng;
+ Người có hành vi lừa dối, cưỡng ép hoặc ngăn cản người để lại di sản trong việc lập di chúc; giả mạo di chúc, sửa chữa di chúc, hủy di chúc, che giấu di chúc nhằm hưởng một phần hoặc toàn bộ di sản trái với ý chí của người để lại di sản.
– Người đã nhận di sản theo hàng thừa kế thứ nhất nhưng có căn cứ để xác định họ không phải là cha, mẹ, con của người để lại di sản.
– Người đã nhận di sản theo hàng thừa kế thứ hai nhưng có căn cứ để xác định họ không phải là ông, bà, cháu, anh, chị, em ruột của người đê lại di sản.
– Người đã nhận di sản theo hàng thừa kế thứ ba nhưng có căn cứ để xác định họ không phải là cụ, chắt, cháu, cô, dì, chú, bác. cậu ruột của người để lại di sản.
Khi di sản đã được phân chia mà xác định có người thừa kế bị bác bỏ quyền thừa kế thì người đó phải trả lại di sản hoặc phải thanh toán một khoản tiền tương đương với giá trị di sản được hưởng tại thời điểm chia thừa kế cho những người thừa kế được hưởng di sản, trừ trường hợp họ có thỏa thuận khác.
Thời hiệu bác bỏ quyền thừa kế, theo quy định tại Điều 623 Bộ luật dân sự 2015:
“2. Thời hiệu để người thừa kế yêu cầu xác nhận quyền thừa kế của mình hoặc bác bỏ quyền thừa kế của người khác là 10 năm, kể từ thời điểm mở thừa kế.”
Như vậy, sau thời hạn 10 năm kể từ thời điểm mở thừa kế (thời điểm người để lại di sản chết) người thừa kế không còn quyền khởi kiện thừa kế yêu cầu bác bỏ quyền thừa kế của người khác.