Căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng theo quy định mới? Điểm mới của Bộ luật dân sự 2015 về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng? Điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng?
Mục lục bài viết
1. Căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng:
Tóm tắt câu hỏi:
Thưa luật sư tôi có một vài điều muốn nhờ luật sư giải đáp. Căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng theo Bộ luật dân sự 2015, yếu tố lỗi không phải là yếu tố bắt buộc đồng thời mở rộng phạm vi gây thiệt hại có thể là do tài sản gây ra. Luật sư nhận định như thế nào về vấn đề này?
Cũng theo căn cứ phát sinh đó tôi có một tình huống cụ thể như sau: B tới nhà A ăn trộm. A có đề biển ở ngoài cổng là nhà có vẹt dữ. B tuy nhìn thấy nhưng nghĩ rằng vẹt dữ đến đâu thì anh ta cũng có thể khắc phục được vì vậy B quyết định ăn trộm. B vừa đặt chân xuống đất thì vẹt kêu: con ki đâu tấn công. B bị gãy tay và mất rất nhiều máu. Tình huống này chủ nhà không phải bồi thường, vậy trong tình huống trên đã vi phạm điều kiện nào của căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hai ngoài hợp đồng ạ? Mong nhận được sự hồi đáp sớm từ Luật sư. Tôi xin chân thành cảm ơn!
Luật sư tư vấn:
Căn cứ vào Điều 584
Như vậy, Bộ luật dân sự 2015 quy định yếu tố lỗi không phải là yếu tố bắt buộc để làm căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng. Trong khi đó,
Như vậy, về cơ bản, Bộ luật dân sự 2015 mở rộng thêm các trường hợp phải bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng khi không có lỗi so với Bộ luật dân sự 2005. Quy định này nhằm mục đích bù đắp phần nào tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, quyền, lợi ích hợp pháp khác của người bị thiệt hại (không xét đến lỗi của người bị thiệt hại trong trường hợp này) vì trong nhiều trường hợp, dù người gây thiệt hại không có lỗi nhưng thiệt hại thực tế đã xảy ra.
Tình huống mà bạn đưa ra đã vi phạm nguyên tắc miễn trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho người gây thiệt hại trong trường hợp người bị thiệt hại hoàn toàn có lỗi.
Như vậy, theo quy định của Bộ luật dân sự 2015, chỉ khi lỗi hoàn toàn thuộc về B, A mới được miễn trách nhiệm trong trường hợp này. Tuy nhiên, dựa trên những tình tiết mà bạn cung cấp, chúng ta thấy rằng lỗi không hoàn toàn nằm ở B. Trong trường hợp B bị con vẹt tấn công gây thiệt hại thì sẽ rơi vào trường hợp lỗi vô ý do quá tự tin: B lường trước được hậu quả nhưng cho rằng mình có thể khắc phục được.
Còn trường hợp như bạn nêu, con chó tấn công khiến B bị thương không phải do lỗi của B. Bởi vì B không lường trước được và cũng không thể lường trước được tình huống này (A chỉ cảnh báo nhà có vẹt dữ, không cảnh báo nhà có chó dữ). Do đó, lỗi không hoàn toàn do B nên A không được miễn trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng theo quy định tại Khoản 2 Điều 584 Bộ luật dân sự 2015
2. Điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng:
Xuất phát từ những quy định, những nguyên tắc của pháp luật nói chung và luật dân sự nói riêng, trách nhiệm bồi thường thiệt hại phát sinh khi có điều kiện sau:
Có thiệt hại xảy ra:
Thiệt hại là những tổn thất thực tế được tính thành tiền, do việc xâm phạm đến tính mạng, sức khoẻ, danh dự, uy tín, tài sản của cá nhân, tổ chức.
Hành vi gây thiệt hại là hành vi trái pháp luật:
Quyền được bảo vệ tính mạng, sức khoẻ, danh dự, uy tín, tài sản là một quyền tuyệt đối của mọi công dân, tổ chức. Mọi người đều phải tôn trọng những quyền đó của chủ thể khác, không được thực hiện bất cứ hành vi nào “xâm phạm” đến các quyền đó. Bởi vậy, Điều 584 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định về thiệt hại do sức khoẻ bị xâm phạm. Việc “xâm phạm” mà gây thiệt hại có thể là hành vi vi phạm pháp luật hình sự, hành chính, dân sự, kể cả những hành vi vi phạm đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước, vi phạm các quy tắc sinh hoạt trong từng cộng đồng dân cư…
Có lỗi của người gây thiệt hại:
Người gây thiệt hại phải chịu trách nhiệm dân sự khi họ có lỗi. Xét về hình thức lỗi là thái độ tâm lý của người có hành vi gây thiệt hại, lỗi được thể hiện dưới dạng cố ý hay vô ý.
– Cố ý gây thiệt hại là trường hợp một người nhận thức rõ hành vi của mình sẽ gây thiệt hại cho người khác mà vẫn thực hiện và mong muốn hoặc không mong muốn, nhưng để mặc cho thiệt hại xảy ra.
– Vô ý gây thiệt hại là một người không thấy trước hành vi của mình có khả năng gây ra thiệt hại mặc dù phải biết trước thiệt hại sẽ xảy ra hoặc thấy trước hành vi của mình có khả năng gây ra thiệt hại, nhưng cho rằng thiệt hại sẽ không xảy ra hoặc có thể ngăn chặn được.
Lỗi là một trong bốn điều kiện làm phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng nói riêng và trách nhiệm dân sự nói chung. Con người phải chịu trách nhiệm khi họ có lỗi, có khả năng nhận thức và làm chủ được hành vi của mình. Bởi vậy, những người không có khả năng nhận thức và làm chủ được hành vi của mình sẽ không có lỗi trong việc thực hiện các hành vi đó.
Tuy nhiên, có trường hợp người gây thiệt hại có thể được giảm mức bồi thường nếu do lỗi vô ý mà gây thiệt hại quá lớn so với khả năng kinh tế trước mắt và lâu dài của họ hoặc thiệt hại do lỗi cố ý của người bị thiệt hại, thì không phải bồi thường.
Có mối liên hệ nhân quả giữa thiệt hại và hành vi trái pháp luật:
Thiệt hại xảy ra là kết quả của hành vi trái pháp luật hay ngược lại hành vi trái pháp luật là nguyên nhân của thiệt hại xảy ra. Điều này được quy định tại Bộ luật Dân sự dưới dạng: “Người nào… xâm phạm… mà gây thiệt hại… thì phải bồi thường”. Ở đây chúng ta có thể thấy hành vi đó.
Tuy nhiên, việc xác định mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật và thiệt hại xảy ra trong nhiều trường hợp rất khó khăn. Do đó cần phải xem xét, phân tích, đánh giá tất cả các sự kiện liên quan một cách thận trọng, khách quan và toàn diện. Từ đó mới có thể rút ra được kết luận chính xác về nguyên nhân, xác định đúng trách nhiệm của người gây thiệt hại.
3. Khi nào phải thực hiện trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng?
Tóm tắt câu hỏi:
Anh tôi tên Tuấn, 00h30 ngày 10/4 công an gọi về gia đình báo anh bị tai nạn giao thông, khi vào bệnh viện thì công an bảo có 2 người nằm chung 1 hiện trường (là Tuấn và 1 người nữa tên Thái), Tôi vào thì người nhà của Thái nói Tuấn đụng Thái, Tuấn bị hoại tử đại tràng mỗ, Thái bị máu bầm tụ não, bác sỹ cho uống thuốc điều trị.
Cả 2 đều có uống rượu say. Trong thời gian điều trị ở bệnh viện người nhà bên tôi có qua thăm hỏi và đưa 2 triệu cho bên kia thuốc than, tôi thấy trên người của Thái không có vết trầy xước hay bầm nào cả. Tuấn tỉnh lại tôi hỏi thì anh bảo anh chỉ nhớ là biết mình say quá nên tấp vào lề, rồi nghe 1 tiếng gầm, rồi không nhớ. Người tên Thái thì nói Thái đi bộ về nhà, xỉn quá nên không nhớ gì hết. Lúc xảy ra tai nạn không ai biết và thấy cả.
Đến khoảng hơn 1 tiếng đồng hồ sau mới có người phát hiện và gọi công an. Giả thiết Tuấn đụng Thái, thì ít nhất trên người Thái phải có vết thương hoặc bầm (Thái không có vết bầm hay trầy xước nào trên người, có tụ máu bầm trong não ở phía sau ót), Thái say rượu đi dưới lòng đường trong đêm khuya. Hỏi luật sư, Tuấn có bồi thường hay chịu trách nhiệm gì không ạ??
Luật sư tư vấn:
Căn cứ Điều 584 và Điều 590 Bộ luật Dân sự 2015 quy định về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.
Theo đó, người gây thiệt hại chỉ không phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại khi thiệt hại phát sinh do sự kiện bất khả kháng hoặc hoàn toàn do lỗi của bên bị thiệt hại. Tuy nhiên, bạn có cung cấp thông tin “Tuấn tỉnh lại tôi hỏi thì anh bảo anh chỉ nhớ là biết mình say quá nên tấp vào lề, rồi nghe 1 tiếng gầm, rồi không nhớ”, như vậy có thể hiểu là Tuấn đã có nồng độ trong người nhưng vẫn điều khiển phương tiện giao thông tham gia giao thông thông. Hành vi này của Tuấn là sai quy định của pháp luật về An toàn giao thông đường bộ, và lỗi của Tuấn đã được xác định là có trong trường hợp này. Tuy nhiên cần phải kiểm tra xem Thái có lỗi hay không để áp dụng nguyên tắc bồi thường theo Điều 585 Bộ luật Dân sự 2015.
“Điều 585. Nguyên tắc bồi thường thiệt hại
1. Thiệt hại thực tế phải được bồi thường toàn bộ và kịp thời. Các bên có thể thỏa thuận về mức bồi thường, hình thức bồi thường bằng tiền, bằng hiện vật hoặc thực hiện một công việc, phương thức bồi thường một lần hoặc nhiều lần, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.
2. Người chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại có thể được giảm mức bồi thường nếu không có lỗi hoặc có lỗi vô ý và thiệt hại quá lớn so với khả năng kinh tế của mình.
3. Khi mức bồi thường không còn phù hợp với thực tế thì bên bị thiệt hại hoặc bên gây thiệt hại có quyền yêu cầu Tòa án hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác thay đổi mức bồi thường.
4. Khi bên bị thiệt hại có lỗi trong việc gây thiệt hại thì không được bồi thường phần thiệt hại do lỗi của mình gây ra…”
Và mức bồi thường thiệt hại được quy định tại Điều 590 Bộ luật Dân sự 2015 bao gồm:
– Chị phí hợp lý cho việc cứu chữa, bồi dưỡng, phục hồi sức khỏe và chức năng bị mất, bị giảm sút của người bị thiệt hại: được chứng minh bằng các chứng từ, hóa đơn tiền khám chữa bệnh tại bệnh viện, tiền thuốc theo đơn của bác sỹ…
– Thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút của người bị thiệt hại và người chăm sóc: được chứng minh bằng
– Tiền bù đắp tổn thất về tinh thần: do hai bên thỏa thuận hoặc Tòa án quyết định nhưng không quá năm mươi lần mức lương cơ sở do Nhà nước quy định.