Để xác định được những người có quyền hưởng thừa kế, tùy thuộc vào mối quan hệ của họ với người để lại di sản, sẽ được ưu tiên hưởng di sản theo một trình tự do pháp luật quy định. Vậy thì, khi nào hàng thừa kế thứ hai sẽ được quyền thừa kế di sản mà người chết để lại?
Mục lục bài viết
1. Hàng thừa kế thứ hai bao gồm những chủ thể nào?
Có thể nói, hàng thừa kế theo pháp luật là nhóm người ở trong một hàng, có quan hệ cùng mức độ gần gũi với người để lại di sản thừa kế. Nhưng không phải tất cả những người thuộc diện thừa kế đều được hưởng di sản thừa kế trong điều kiện, và cùng một lúc như nhau mà căn cứ vào mức độ gần gũi và trách nhiệm nuôi dưỡng trong mối quan hệ với người để lại di sản mà các luật quy định thành các hàng thừa kế trước và sau.
Các hàng thừa kế là những người thuộc diện thừa kế được sắp xếp thứ tự hàng nhất định trong việc hưởng di sản theo trình tự tuyệt đối trên nguyên tắc hàng trước loại trừ hàng sau. Điều này tùy thuộc vào quan điểm lập pháp của từng thời kỳ, từng quốc gia mà tác động đến việc quy định số lượng hàng thừa kế. Theo pháp luật thực định của nước ta thì số lượng hàng thừa kế được chia thành 03 hàng và cơ sở để ghi nhận những người trong cùng một hàng thừa kế là tùy thuộc vào mức độ gần gũi, thân thích với người chết để lại di sản. Mặt khác, nếu không chia diện thừa kế thành các hàng để ưu tiên cho hàng thừa kế trước thì di sản thừa kế của người chết để lại phải chia đều cho tất cả những người nằm trong diện thừa kế. Nếu vậy, có phải ai sau khi chết cũng có khối di sản lớn để chia đều có tất cả những người trong diện thừa kế, phần mà những người này được hưởng liệu có giá trị vật chất, tinh thần cho họ không. Một trong những mục đích của việc dịch chuyển di sản là để cho người nhận di sản dùng để phát triển gia tài và sản nghiệp của gia đình.
Hiện nay căn cứ theo quy định tại Điều 651 của Bộ luật dân sự năm 2015, thì có thể nói hàng thừa kế thứ hai được xác định là một trong những hàng thừa kế trong trường hợp thừa kế theo pháp luật. Cụ thể là, khi thuộc một trong những trường hợp cơ bản sau đây thì di sản của người chết sẽ được chia theo pháp luật cho các hàng thừa kế:
– Người chết không để lại di chúc;
– Người chết có để lại di chúc tuy nhiên di chúc đó không hợp pháp theo quy định của pháp luật, tức là di chúc không thỏa mãn quy định tại Điều 630 của Bộ luật dân sự năm 2015;
– Những người thừa kế theo di chúc chết trước hoặc chết cùng thời điểm với người lập di chúc, các cơ quan được thừa kế theo di chúc không còn tồn tại vào thời điểm mở thừa kế;
– Những người được chỉ định làm người thừa kế theo di chúc không có quyền hưởng di sản hoặc đồng ra từ chối nhận di sản.
Ngoài ra thì theo quy định của pháp luật hiện nay, trường hợp thừa kế theo pháp luật cũng sẽ được áp dụng đối với những phần di sản sau đây:
– Phần di sản không được định đoạt trong di chúc thì sẽ được thừa kế theo pháp luật;
– Phần di sản có liên quan đến phần di chúc không có hiệu lực pháp luật trong những trường hợp nêu trên;
– Phần di sản có liên quan đến người thừa kế theo di chúc tuy nhiên họ không có quyền hưởng di sản hoặc từ chối nhận di sản trên thực tế, hoặc những người thừa kế đã chết trước hoặc chết cùng thời điểm với người lập di chúc, phần di sản đó có liên quan đến các tổ chức được hưởng di sản theo di chúc tuy nhiên các tổ chức này đã không còn tồn tại vào thời điểm mở thừa kế.
Ngoài ra căn cứ theo quy định tại Điều 651 của Bộ luật dân sự năm 2015 có quy định về những hàng thừa kế theo pháp luật, cụ thể như sau:
– Hàng thừa kế thứ nhất theo quy định của pháp luật hiện nay bao gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết;
– Hàng thừa kế thứ hai theo quy định của pháp luật hiện nay bao gồm: ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị ruột, em ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại;
– Hàng thừa kế thứ ba theo quy định của pháp luật hiện nay bao gồm: cụ nội, cụ ngoại của người chết; bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột; chắt ruột của người chết mà người chết là cụ nội, cụ ngoại.
Như vậy, hàng thừa kế thứ 2 gồm những người có quan hệ với người chết dưới đây:
– Ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị ruột, em ruột;
– Cháu ruột của người chết mà người chết là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại;
2. Khi nào hàng thừa kế thứ hai được quyền hưởng thừa kế di sản?
Hiện nay, căn cứ theo quy định tại Điều 651 của Bộ luật dân sự 2015, có quy định cụ thể về những người thừa kế theo pháp luật, trong đó có ghi nhận, những người thừa kế ở hàng thừa kế sau sẽ chỉ đo bằng thừa kế nếu không còn ai ở hàng thừa kế trước đó, tức là những người thuộc hàng thừa kế trước đó đã chết hoặc không có quyền hưởng di sản thừa kế, những người thuộc hàng thừa kế trước đó bị truất quyền hưởng di sản thừa kế hoặc từ chối nhận di sản thừa kế theo nguyện vọng của bản thân mà không nhằm mục đích trốn tránh nghĩa vụ tài sản đối với người thứ ba.
Như vậy dựa theo phân tích ở trên thì có thể nói, người thừa kế thuộc hàng thừa kế thứ hai sẽ được hưởng di sản thừa kế trong trường hợp:
– Những người thuộc hàng thừa kế thứ nhất không còn ai, do họ đã chết;
– Những người thuộc hàng thừa kế thứ nhất không có quyền hưởng di sản thừa kế của người chết để lại;
– Những người thuộc hàng thừa kế thứ nhất bị truất quyền hưởng di sản thừa kế;
– Những người thuộc hàng thừa kế thứ nhất từ chối nhận di sản thừa kế.
Đồng thời, mỗi người thuộc hàng thừa kế thứ hai khi được áp dụng quyền hưởng thừa kế di sản của người chết để lại thì sẽ được hưởng một phần di sản tương đương và bằng nhau.
Như vậy những người thuộc hàng thừa kế sẽ được làm di sản mà người chết để lại theo thứ tự và lần lượt. Quy định này của pháp luật nhằm giải quyết việc hưởng di sản theo trình tự mà không có sự xen kẽ thứ bậc như pháp luật thừa kế của một số quốc gia khác trên thế giới. Quyền của người thừa kế ở cùng một hàng sẽ được đảm bảo trong việc hưởng di sản. Không có người thừa kế ở hàng thứ hai cùng được hưởng di sản với những người thừa kế thuộc hàng thứ nhất. Trong trường hợp hàng thừa kế thứ nhất chỉ còn các con của người để lại di sản nhưng các con đều đã chết trước hoặc chết cùng một thời điểm với người để lại di sản thì không còn người thừa kế, khi chia thừa kế thế vị cho các cháu của người để lại di sản vẫn phải căn cứ vào vị trí của bố hoặc mẹ các cháu để xác định phần di sản thừa kế thế vị.
Vào thời điểm mở thừa kế của người để lại di sản mà không còn người thuộc hàng thừa kế thứ nhất do họ từ chối nhận di sản, không có quyền hưởng di sản hoặc bị truất quyền hưởng di sản … hoặc thuộc những trường hợp nêu trên, mà có người đã thành thai trước khi người để lại di sản chết và được xác định là con của người để lại di sản sau khi sinh ra còn sống thì được thừa kế theo pháp luật của người đó. Nếu người con đó sinh ra mà không còn sống thì người thừa kế ở hàng thứ hai sẽ có quyền hưởng di sản.
Người thừa kế ở hàng thứ hai sẽ được hưởng một phần di sản trong trường hợp ở hàng thừa kế thứ nhất đều là những người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc mà người lập di chúc truất quyền thừa kế của tất cả những người đó và không chỉ định cho ai hưởng di sản. Trước hết tính phần thừa kế theo quy định của pháp luật cho mỗi người bị truất quyền hưởng 2/3 suất thừa kế theo pháp luật, phần còn lại sau khi trừ đi tổng số phần bắt buộc, thì những người thuộc hàng thừa kế thứ hai sẽ được hưởng.
Những người thừa kế ở hai hàng đầu đều có mối quan hệ huyết thống, quan hệ về hôn nhân và nuôi dưỡng với người để lại di sản. Riêng những người thuộc hàng thừa kế thứ ba được cơ cấu bao gồm nhiều thế hệ và nhiều cấp bậc trên dưới khác nhau trong quan hệ huyết thống, nhưng theo quy định của pháp luật hiện hành thì giữa họ với người để lại di sản không có sự ràng buộc nào về nghĩa vụ nuôi dưỡng, giám hộ và đại diện đương nhiên của nhau.
3. Thuộc hàng thừa kế thứ hai nhưng không được quyền hưởng di sản khi nào?
Hiện nay căn cứ theo quy định tại Điều 621 của Bộ luật dân sự năm 2015, mặc dù những người thuộc hàng thừa kế thứ hai sẽ được hưởng di sản thừa kế mà người chết để lại trong những trường hợp nêu trên, Tuy nhiên sẽ không được quyền hưởng di sản nếu thuộc một trong những trường hợp dưới đây;
– Được xác định là các đối tượng bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm đến sức khỏe hoặc tính, ngược đãi nghiêm trọng hoặc có hành vi hành hạ người để lại di sản, xâm phạm nghiêm trọng đến danh dự và nhân phẩm của người để lại di sản;
– Người có hành vi vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ nuôi dưỡng đối với người để lại di sản;
– Người bị kết án về các hành vi cố ý xâm phạm đến tính mạng của những người đồng thừa kế khác nhằm mục đích chiếm một phần hoặc toàn bộ phần di sản mà đáng lẽ ra người đồng thừa kế đó sẽ được quyền hưởng;
– Những người có hành vi lừa dối hoặc cưỡng ép dưới bất kỳ hình thức nào hoặc có hành vi ngăn cản người để lại di sản trong việc lập di chúc, có hành vi giả mạo di chúc hoặc sửa chữa di chúc trái với nguyện vọng của người chết, hủy di chúc hoặc che giấu di chúc nhằm mục đích hưởng một phần hoặc toàn bộ di sản trái với ý muốn của người chết.
Nếu thuộc một trong những trường hợp nêu trên thì sẽ không được quyền hưởng di sản mà người chết để lại.
Các văn bản pháp luật được sử dụng trong bài viết:
– Bộ luật Dân sự năm 2015.