Tội xâm phạm thi thể, mồ mả, hài cốt là gì? Tội xâm phạm thi thể, mồ mả, hài cốt tiếng Anh là gì? Quy định pháp luật về tội xâm phạm thi thể, mồ mả, hài cốt? Trách nhiệm khác khi xâm phạm thi thể, mồ mả, hài cốt?
Khi mỗi cá nhân chết đi, thì họ vẫn được pháp luật bảo vệ về sự nguyên vẹn về thi thể của họ, và mồ mả, hài cốt của họ cũng được pháp luật bảo vệ. Khi xâm phạm thi thể, mồ mả, hài cốt ngoài việc bồi thường thiệt hại theo quy định pháp luật dân sự thì những người thực hiện hành vi xâm phạm phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi của mình. Bài viết dưới đây Luật Dương Gia sẽ giới thiệu về tội xâm phạm thi thể, mồ mả, hài cốt theo quy định của Bộ luật Hình sự,
1. Tội xâm phạm thi thể, mồ mả, hài cốt là gì?
Tội xâm phạm thi thể, mồ mả, hài cốt là tội phạm được quy định trong bộ luật hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự và đạt độ tuổi luật định thực hiện hành vi xâm phạm đến thi thể, mồ mả, hài cốt.
2. Tội xâm phạm thi thể, mồ mả, hài cốt tiếng Anh là gì?
Tội xâm phạm thi thể, mồ mả, hài cốt tiếng Anh là: “Infringement upon human bodies, graves, or remains”.
3. Quy định pháp luật về tội xâm phạm thi thể, mồ mả, hài cốt
“Điều 319. Tội xâm phạm thi thể, mồ mả, hài cốt
1. Người nào đào, phá mồ mả, chiếm đoạt những đồ vật để ở trong mộ, trên mộ hoặc có hành vi khác xâm phạm thi thể, mồ mả, hài cốt, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm:
a) Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội;
b) Chiếm đoạt hoặc hủy hoại vật có giá trị lịch sử, văn hóa;
c) Vì động cơ đê hèn;
d) Chiếm đoạt bộ phận thi thể, hài cốt.”
Các dấu hiệu thuộc về chủ thể của tội phạm
Chủ thể của tội phạm này là người một độ tuổi nhất định và có năng lực trách nhiệm hình sự đều có thể là chủ thể của tội phạm này. Người có năng lực trách nhiệm hình sự là người có khả năng nhận thức và điều khiển hành vi phù hợp với yêu cầu của xã hội.
Theo quy định tại Điều 12 Bộ luật hình sự quy định:
“1. Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm, trừ những tội phạm mà Bộ luật này có quy định khác.
2. Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng quy định tại một trong các điều 123, 134, 141, 142, 143, 144, 150, 151, 168, 169, 170, 171, 173, 178, 248, 249, 250, 251, 252, 265, 266, 286, 287, 289, 290, 299, 303 và 304 của Bộ luật này.”
Như vậy thì chỉ người đủ 16 tuổi trở lên mới là chủ thể của tội phạm này, vì tội phạm này không có trường hợp nào là tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.
Các dấu hiệu thuộc mặt khách thể của tội phạm
Tội xâm phạm thi thể, mồ mả, hài cốt là tội xâm phạm đến trật tự, an toàn đối với thi thể, phần mộ và hài cốt của người đã chết và thông qua đó đã xâm phạm đến phong tục, tập quán, truyền thống của dân tộc Việt Nam.
Các dấu hiệu thuộc về mặt khách quan của tội phạm
Hành vi khách quan: Người phạm tội thực hiện một trong các hành vi sau đây:
Đào, phá mồ mả là hành vi hủy hoại hoặc làm hư hỏng mồ mả, làm cho mồ mả không còn nguyên vẹn như trước. Hành vi đào, phá mồ mả được thực hiện dưới nhiều phương thức khác nhau và với những động cơ, mục đích khác nhau như: để lấy những đồ vật quý hiếm mà thân nhân người quá cố cho vào quan tài chôn cùng với người quá cố; để trả thù thân nhân người quá cố; để che giấu hành vi phạm tội… Tuy nhiên, nếu hành vi đào, phá mồ mả, nhưng tính chất nguy hiểm cho xã hội không đáng kể thì không coi là hành vi phạm tội như: đào mộ để bắt chuột, bắt rắn; đập phá một vài họa tiết trang trí trên mộ…
Chiếm đoạt những đồ vật để ở trong mộ, trên mộ là hành vi chiếm đoạt những đồ vật để ở trong mộ, trên mộ thường đi kèm với hành vi đào, phá mồ mả (đào phá mồ mả để chiếm đoạt những đồ vật để trong quan tài), nhưng cũng có trường hợp người phạm tội không đào, phá mồ mả nhưng vẫn chiếm đoạt được những đồ vật để ở trong mộ, trên mộ như: lợi dụng việc đổi mộ (bốc hài cốt) đã chiếm đoạt đồ trang sức chôn theo người chết; lấy các đồ vật có giá trị để trên mộ (bát hương, lọ hoa, di ảnh…)
Các hành vi khác xâm phạm thi thể, mồ mả, hài cốt: Ngoài hành vi đào, phá mồ mả, chiếm đoạt những đồ vật để ở trong mộ, trên mộ thì các hành vi khác xâm phạm thi thể, mồ mả, hài cốt cũng được coi là hành vi phạm tội xâm phạm thi thể, mồ mả, hài cốt. Hành vi khác nói ở đây là bất cứ hành vi nào mà xâm phạm đến thi thể, mồ mả, hài cốt như: đánh tráo thi thể, lấy các bộ phận của thi thể, đánh tráo hoặc chiếm đoạt hài cốt, chia sẻ hài cốt. v.v…
Hậu quả: Hậu quả của hành vi xâm phạm thi thể, mồ mả, hài cốt không phải là dấu hiệu bắt buộc của tội phạm này. Tuy nhiên, không phải trường hợp nào cứ xâm phạm thi thể, mồ mả, hài cốt cũng bị coi là hành vi phạm tội mà chỉ những hành vi xâm phạm nghiêm trọng đến thi thể, mồ mả, hài cốt mới bị coi là hành vi phạm tội.
Khi xác định hành vi phạm tội xâm phạm thi thể, mồ mả, hài cốt cần chú ý đến phong tục, tập quán, truyền thống của từng địa phương, từng dân tộc để xác định hành vi xâm phạm thi thể, mồ mả, hài cốt đã nghiêm trọng tới mức cần truy cứu trách nhiệm hình sự hay chưa, vì trong lĩnh vực này là vấn đề nhạy cảm, không phải cứ truy cứu trách nhiệm hình sự người có hành vi xâm phạm mới có tác dụng giáo dục, phòng ngừa tội phạm mà việc truy cứu trách nhiệm hình sự còn phải căn cứ vào phong tục, tập quán, đời sống tâm linh của những người thân của người quá cố.
Các dấu hiệu thuộc về mặt chủ quan của tội phạm
Người phạm tội thực hiện hành vi xâm phạm thi thể, mồ mả, hài cốt là do cố ý, tức họ nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả của hành vi đó và mong muốn hậu quả xảy ra hoặc nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả của hành vi đó có thể xảy ra, tuy không mong muốn nhưng vẫn có ý thức để mặc cho hậu quả xảy ra. (Điều 10 Bộ luật Hình sự năm 2015)
Cấu thành tăng nặng của tội phạm
Cấu thành tăng nặng của tội xâm phạm thi thể, mồ mả được quy định tại khoản 2 của điều luật này, đó chính là
Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội được hiểu là hành vi của một cá nhân, pháp nhân làm ảnh hưởng, đe dọa, hoặc phá vỡ trật tự, kỷ cương của xã hội, người dân, khu dân cư hoặc một cộng đồng dân cư hoang mang, lo sợ, phẫn nộ,…hoặc xâm phạm đến quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, cơ quan, tổ chức, làm ảnh hưởng, đe dọa đến trật tự xã hội hoặc xâm phạm đến những giá trị xã hội, chuẩn mực đạo đức được mọi người tôn trọng, thừa nhận và tuân thủ.
Chiếm đoạt hoặc hủy hoại vật có giá trị lịch sử, văn hóa tức người phạm tội đã chuyển dịch trái phép các di vật, cổ vật, … có giá trị quan trọng đối với lịch sử, văn hóa
Vì động cơ đê hèn, thì tham khảo quy định Thông tư liên tịch 01/2013/TTLT- TANDTC- VKSNDTC- BCA- BQP thì “vì động cơ đê hèn” được hiểu là trường hợp phạm tội với động cơ đê tiện, thấp hèn, ích kỷ, thể hiện sự bội bạc, phản trắc, hèn nhát. Người phạm tội nhằm mục đích trả thù, hoặc để khống chế nạn nhân và gia đình, người thân của nạn nhân phục vụ cho mưu đồ của mình.
Chiếm đoạt bộ phận thi thể, hài cốt là trường hợp người phạm tội thực hiện xâm phạm dịch chuyển bộ phận thi thể, hài cốt của người đã khuất.
Hình phạt của tội xâm phạm thi thể, mồ mả, hài cốt
Phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm đối với hành vi đào, phá mồ mả, chiếm đoạt những đồ vật để ở trong mộ, trên mộ hoặc có hành vi khác xâm phạm thi thể, mồ mả, hài cốt (Khoản 1)
Phạt tù từ 02 năm đến 07 năm với trường hợp phạm tội mà gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội;; chiếm đoạt hoặc hủy hoại vật có giá trị lịch sử, văn hóa; vì động cơ đê hèn; hoặc chiếm đoạt bộ phận thi thể, hài cốt.
4. Trách nhiệm khác khi xâm phạm thi thể, mồ mả, hài cốt
Theo quy định của
“Điều 607. Bồi thường thiệt hại do xâm phạm mồ mả
1. Cá nhân, pháp nhân xâm phạm đến mồ mả của người khác phải bồi thường thiệt hại.
2. Thiệt hại do xâm phạm mồ mả gồm chi phí hợp lý để hạn chế, khắc phục thiệt hại.
3. Người chịu trách nhiệm bồi thường trong trường hợp mồ mả của người khác bị xâm phạm phải bồi thường theo quy định tại khoản 2 Điều này và một khoản tiền khác để bù đắp tổn thất về tinh thần cho những người thân thích theo thứ tự hàng thừa kế của người chết; nếu không có những người này thì người trực tiếp nuôi dưỡng người chết được hưởng khoản tiền này. Mức bồi thường bù đắp tổn thất về tinh thần do các bên thỏa thuận; nếu không thỏa thuận được thì mức tối đa đối với mỗi mồ mả bị xâm phạm không quá mười lần mức lương cơ sở do Nhà nước quy định.”
Như vậy, người phạm tội phải bồi thường những chi phí hợp lý để hạn chế, khắc phục thiệt hại như những chi phí về mua nguyên vật liệu, thuê thợ xây,… đề khôi phục lại hiện trạng ban đầu của ngôi mộ và bù đắp tổn thất về tinh thần cho những người thân thích hoặc người trực tiếp nuôi dưỡng người chết. Mức bồi thường bù đắp tổn thất về tinh thần do các bên thỏa thuận; nếu không thỏa thuận được thì mức tối đa đối với mỗi mồ mả bị xâm phạm không quá mười lần mức lương cơ sở do Nhà nước quy định.