Quy định về việc chấm dứt hợp đồng lao động của người sử dụng lao động. Trách nhiệm người sử dụng lao động khi đơn phương chấm dứt hợp đồng trái luật.
Quy định về việc chấm dứt
Tóm tắt câu hỏi:
Ngày 18/9/2007, ông Tài vào làm tại một công ty Gò Vấp. Đến nay có thời gian làm việc hơn 2 năm và có ký
Luật sư tư vấn:
Cám ơn bạn đã gửi câu hỏi của mình đến Ban biên tập – Phòng tư vấn trực tuyến của Công ty LUẬT DƯƠNG GIA. Với thắc mắc của bạn, Công ty LUẬT DƯƠNG GIA xin được đưa ra quan điểm tư vấn của mình như sau:
Vì sự việc bạn đưa ra đã xảy ra từ năm 2009 nên luật áp dụng sẽ là Bộ luật lao động 1994 sửa đổi, bổ sung 2002, 2006, 2007 và các văn bản khác có liên quan.
Căn cứ Điều 37 Bộ luật lao động 1994 sửa đổi, bổ sung 2002, 2006, 2007: Hợp đồng lao động xác định thời hạn áp dụng cho những công việc xác định được thời điểm kết thúc trong khoảng thời gian từ đủ 12 tháng đến đủ 36 tháng;
Căn cứ Điều 3 Nghị định 44/2003/NĐ-CP quy định hình thức, nội dung giao kết hợp đồng lao động quy định tại Điều 28 và Điều 29 của Bộ luật Lao động được quy định như sau: Khi hợp đồng lao động xác định thời hạn này hết hạn mà người lao động vẫn tiếp tục làm việc thì trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày hợp đồng lao động hết hạn, hai bên phải ký kết
Trường hợp hai bên ký kết hợp đồng lao động mới là hợp đồng xác định thời hạn thì cũng chỉ được ký thêm 01 lần hợp đồng xác định thời hạn không quá 36 tháng, sau đó nếu người lao động vẫn tiếp tục làm việc thì phải ký kết hợp đồng lao động không xác định thời hạn, nếu không ký thì đương nhiên trở thành hợp đồng lao động không xác định thời hạn.
Theo thông tin anh cung cấp, hợp đồng lao động của anh Tài với công ty là hợp đồng lao động xác định thời hạn với thời hạn là 12 tháng kể từ ngày 18/9/2007 và đã ký kết thêm một hợp đồng xác định thời hạn là 12 tháng nữa đến ngày 17/10/2009 nhưng sau đó anh Tài vẫn tiếp tục làm việc cho đến ngày 19/11/2009 là quá 33 ngày so với thời điểm hợp đồng lao động xác định thời hạn ký thêm hết hạn. Như vậy trong trường hợp này hợp đồng lao động anh Tài đương nhiên trở thành hợp đồng lao không xác định thời hạn. Việc công ty chấm dứt hợp đồng với lí do hết hạn hợp đồng là không phù hợp với quy định của pháp luật.
Nếu công ty nhất định cho anh Tài thôi việc vậy sẽ thuộc trường hợp người lao động đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động.
Điều 38 Bộ luật lao động 1994 sửa đổi, bổ sung 2002, 2006, 2007 quy định người sử dụng lao động đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động như sau:
"1- Người sử dụng lao động có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trong những trường hợp sau đây:
a) Người lao động thường xuyên không hoàn thành công việc theo hợp đồng;
b) Người lao động bị xử lý kỷ luật sa thải theo quy định tại Điều 85 của Bộ luật này;
c) Người lao động làm theo hợp đồng lao động không xác định thời hạn ốm đau đã Điều trị 12 tháng liền, người lao động làm theo hợp đồng lao động xác định thời hạn ốm đau đã Điều trị sáu tháng liền và người lao động làm theo hợp đồng lao động dưới một năm ốm đau đã Điều trị quá nửa thời hạn hợp đồng lao động, mà khả năng lao động chưa hồi phục. Khi sức khoẻ của người lao động bình phục, thì được xem xét để giao kết tiếp hợp đồng lao động;
>>> Luật sư tư vấn pháp luật trực tuyến qua tổng đài: 1900.6568
d) Do thiên tai, hoả hoạn hoặc những lý do bất khả kháng khác mà người sử dụng lao động đã tìm mọi biện pháp khắc phục nhưng vẫn buộc phải thu hẹp sản xuất, giảm chỗ làm việc;
đ) Doanh nghiệp, cơ quan, tổ chức chấm dứt hoạt động.
2- Trước khi đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động theo các Điểm a, b và c Khoản 1 Điều này, người sử dụng lao động phải trao đổi, nhất trí với Ban chấp hành công đoàn cơ sở. Trong trường hợp không nhất trí, hai bên phải báo cáo với cơ quan, tổ chức có thẩm quyền. Sau 30 ngày, kể từ ngày báo cho cơ quan lao động biết, người sử dụng lao động mới có quyền quyết định và phải chịu trách nhiệm về quyết định của mình. Trường hợp không nhất trí với quyết định của người sử dụng lao động, Ban chấp hành công đoàn cơ sở và người lao động có quyền yêu cầu giải quyết tranh chấp lao động theo trình tự do pháp luật quy định.
3- Khi đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động, trừ trường hợp quy định tại Điểm b Khoản 1 Điều này, người sử dụng lao động phải báo cho người lao động biết trước:
a) Ít nhất 45 ngày đối với hợp đồng lao động không xác định thời hạn;
b) Ít nhất 30 ngày đối với hợp đồng lao động xác định thời hạn từ một năm đến ba năm;
c) Ít nhất ba ngày đối với hợp đồng lao động theo mùa vụ, theo một công việc nhất định mà thời hạn dưới một năm."
Như vậy nếu người sử dụng lao động không đảm bảo các điều kiện trên thì việc người sử dụng lao động đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động này là trái pháp luật.
Về việc công Công ty hẹn để giải quyết chê độ cho ông vào ngày 15/1/2010 tức là sau khoảng 55 ngày sau khi chấm dứt hợp đồng lao động cũng là không đúng với quy định của pháp luật về việc giải quyết chế độ giữa các bên sau khi chấm dứt hợp đồng lao đông. Cụ thể theo Điều 43 Bộ luật lao động 1994 sửa đổi, bổ sung 2002, 2006, 2007 thì "Trong thời hạn bảy ngày, kể từ ngày chấm dứt hợp đồng lao động, hai bên có trách nhiệm thanh toán đầy đủ các Khoản có liên quan đến quyền lợi của mỗi bên; trường hợp đặc biệt, có thể kéo dài nhưng không được quá 30 ngày."