Trường hợp cần thu thập chứng cứ? Phương pháp thu thập chứng cứ của Toà án?
Trong quá trình giải quyết vụ án dân sự, Tòa án có thẩm quyền giải quyết, cụ thể là Chánh án Tòa án sẽ phân công Thẩm phán tiến hành giải quyết vụ án và Thẩm phán phải dựa vào các tài liệu, chứng cứ do các bên đương sự xuất trình cũng như được Tòa án thu thập để làm căn cứ xác định chấp nhận hay phản bác ý kiến, yêu cầu của đương sự. Bởi lẽ chứng cứ chính là những gì có thật trong quá trình xảy ra vụ án mà đương sự hoặc tòa án sẽ thu thập để làm căn cứ chứng minh, xét xử.
Luật sư tư vấn pháp luật miễn phí qua điện thoại 24/7: 1900.6568
1. Trường hợp cần thu thập chứng cứ
Trong tố tụng dân sự, nghĩa vụ chứng minh thuộc về các đương sự trong vụ án, Tòa án chỉ tiến hành trong những trường hợp đương sự không tự thực hiện được và có yêu cầu hoặc trong những trường hợp rất hạn chế mà BLTTDS, đã được sửa đổi, bổ sung theo Luật sửa đổi bổ sung có quy định
Theo đó, khi khởi kiện vụ án thì đương sự cần chứng minh các căn cứ hợp pháp cho Tòa án
Đương sự có yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình phải thu thập, cung cấp, giao nộp cho Tòa án tài liệu, chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu đó là có căn cứ và hợp pháp, trừ các trường hợp sau đây:
+ Người tiêu dùng khởi kiện không có nghĩa vụ chứng minh lỗi của tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ. Tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ bị kiện có nghĩa vụ chứng minh mình không có lỗi gây ra thiệt hại theo quy định của Luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng;
+ Đương sự là người lao động trong vụ án lao động mà không cung cấp, giao nộp được cho Tòa án tài liệu, chứng cứ vì lý do tài liệu, chứng cứ đó đang do người sử dụng lao động quản lý, lưu giữ thì người sử dụng lao động có trách nhiệm cung cấp, giao nộp tài liệu, chứng cứ đó cho Tòa án.
Người lao động khởi kiện vụ án đơn phương chấm dứt
– Đương sự phản đối yêu cầu của người khác đối với mình phải thể hiện bằng văn bản và phải thu thập, cung cấp, giao nộp cho Tòa án tài liệu, chứng cứ để chứng minh cho sự phản đối đó.
– Cơ quan, tổ chức, cá nhân khởi kiện để bảo vệ lợi ích công cộng, lợi ích của Nhà nước hoặc yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người khác phải thu thập, cung cấp, giao nộp cho Tòa án tài liệu, chứng cứ để chứng minh cho việc khởi kiện, yêu cầu của mình là có căn cứ và hợp pháp.
Tổ chức xã hội tham gia bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng không có nghĩa vụ chứng minh lỗi của tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ theo quy định của Luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng.
– Đương sự có nghĩa vụ đưa ra chứng cứ để chứng minh mà không đưa ra được chứng cứ hoặc không đưa ra đủ chứng cứ thì Tòa án giải quyết vụ việc dân sự theo những chứng cứ đã thu thập được có trong hồ sơ vụ việc.
Chính vì vậy, để xác minh các căn cứ khởi kiện là hợp pháp thì đương sự cần cung cấp kèm theo hồ sơ khởi kiện là những tài liệu, chứng cứ chứng minh để Tòa án tiến hành nghiên cứu, đánh giá và sử dụng giải quyết vụ việc dân sự theo yêu cầu đương sự. Trong trường hợp đương sự không thể tự mình thu thập chứng cứ thì có thể yêu cầu Tòa án áp dụng các biện pháp khác để thu thập chứng cứ cho vụ án.
2. Phương pháp thu thập chứng cứ của Tòa án?
Căn cứ theo
Chứng cứ là phần quan trọng, là vấn đề trung tâm của tố tụng dân sự (TTDS). Dựa vào chứng cứ mà các đương sự có cơ sở xác đáng để chứng minh bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình, các cơ quan tiến hành tố tụng có đủ hay không đủ điều kiện để xác định tình tiết của vụ, việc dân sự đúng, đủ, chính xác để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho công dân và bảo vệ pháp luật. Có nhiều phương pháp thu thập chứng cứ của Tòa án chẳng hạn như:
– Lấy lời khai của đương sự: quy định tại Điều 86 BLTTDS. Trường hợp biên bản lấy lời khai của đương sự được lập ngoài trụ sở của Tòa án thì có người làm chứng hoặc xác nhận của Ủy ban nhân dân, Công an xã, phường, thị trấn hoặc cơ quan, tổ chức nơi lập biên bản. Biên bản phải có chữ ký của người lấy lời khai, người khai, người ghi biên bản và đóng dấu của Tòa án.
– Lấy lời khai của người làm chứng: BLTTDS quy định trường hợp cần lấy lời khai của người làm chứng tại Điều 87 “Theo yêu cầu của đương sự hoặc khi xét thấy cần thiết”.
– Đối chất: Đối chât được coi là biện pháp quan trọng nhằm làm sáng tỏ các điểm mâu thuẫn trong lời khai của các bên đương sự và các tài liệu có trong hồ sơ vụ việc dân sự. Khoản 1 Điều 88 BLTTDS quy định:
“Theo yêu cầu của đương sự hoặc khi xét thấy có sự mâu thuẫn…người làm chứng với nhau”.
– Xem xét thẩm định tại chỗ: Việc xem xét, thẩm định tại chỗ do Thẩm phán tiến hành theo đúng trình tự và thủ tục được quy định tại Điều 89 BLTTDS năm.
– Trưng cầu giám định: Theo khoản 1 Điều 90 BLTTDS quy định, Tòa án chỉ trưng cầu giám định khi một hoặc các bên đương sự có yêu cầu, có sự thỏa thuận lựa chọn yêu cầu Tòa án trưng cầu giám định phải được lập thành văn bản. Trường hợp xét thấy kết luận giám định chưa đầy đủ, rõ ràng hoặc có vi phạm pháp luật thì theo yêu cầu của một trong các bên đương sự, Thẩm phán ra quyết định trưng cầu giám định lại hoặc bổ sung.
– Định giá tài sản: Theo quy định tại khoản 1 Điều 92 BLTTDS, Tòa án chỉ áp dụng phương pháp định giá tài sản đang tranh chấp ở một trong hai trường hợp: Theo yêu cầu của một bên hoặc các bên đương sự; Các bên thỏa thuận theo mức giá thấp hơn nhằm mục đích trốn thuế hoặc giảm mức đóng án phí. Việc định giá được hướng dẫn trong Nghị quyết số 04/2012.
– Ủy thác thu thập, xác minh tài liệu, chứng cứ:
Trong quyết định ủy thác phải ghi rõ tên, địa chỉ của nguyên đơn, bị đơn, quan hệ tranh chấp và những công việc cụ thể ủy thác để thu thập chứng cứ.
Tòa án nhận được quyết định ủy thác có trách nhiệm thực hiện công việc cụ thể được ủy thác trong thời hạn 01 tháng, kể từ ngày nhận được quyết định ủy thác và thông báo kết quả bằng văn bản cho Tòa án đã ra quyết định ủy thác; trường hợp không thực hiện được việc ủy thác thì phải thông báo bằng văn bản và nêu rõ lý do cho Tòa án đã ra quyết định ủy thác.
Trường hợp việc thu thập chứng cứ phải tiến hành ở nước ngoài thì Tòa án làm thủ tục ủy thác thông qua cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam hoặc cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài mà nước đó và Cộng hòa xã hộ
+ Yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp tài liệu đọc được, nghe được, nhìn được hoặc hiện vật khác liên quan đến việc giải quyết vụ việc dân sự;
+ Xác minh sự có mặt hoặc vắng mặt của đương sự tại nơi cư trú;
– Yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp tài liệu, chứng cứ:
+ Đương sự có quyền yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp tài liệu, chứng cứ bằng cách cung cấp tài liệu, chứng cứ, đương sự phải làm văn bản yêu cầu ghi rõ tài liệu, chứng cứ cần cung cấp; lý do cung cấp; họ, tên, địa chỉ của cá nhân, tên, địa chỉ của cơ quan, tổ chức đang quản lý, lưu giữ tài liệu, chứng cứ cần cung cấp.
Cơ quan, tổ chức, cá nhân có trách nhiệm cung cấp tài liệu, chứng cứ cho đương sự trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được yêu cầu; trường hợp không cung cấp được thì phải trả lời bằng văn bản và nêu rõ lý do cho người có yêu cầu.
+ Đề nghị Tòa án ra quyết định yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân đang lưu giữ, quản lý tài liệu, chứng cứ cung cấp cho mình hoặc đề nghị Tòa án tiến hành thu thập tài liệu, chứng cứ nhằm bảo đảm cho việc giải quyết vụ việc dân sự đúng đắn trong trường hợp không tự thu thập được.
+ Cơ quan, tổ chức, cá nhân đang quản lý, lưu giữ tài liệu, chứng cứ có trách nhiệm cung cấp đầy đủ tài liệu, chứng cứ theo yêu cầu của Tòa án trong thời hạn
15 ngày, kể từ ngày nhận được yêu cầu; hết thời hạn này mà không cung cấp đầy đủ tài liệu, chứng cứ theo yêu cầu của Tòa án thì cơ quan, tổ chức, cá nhân được yêu cầu phải trả lời bằng văn bản và nêu rõ lý do.
– Bảo quản tài liệu, chứng cứ:
+ Tài liệu, chứng cứ đã được giao nộp tại Tòa án thì việc bảo quản tài liệu, chứng cứ đó do Tòa án chịu trách nhiệm.
+ Tài liệu, chứng cứ không thể giao nộp được tại Tòa án thì người đang lưu giữ tài liệu, chứng cứ đó có trách nhiệm bảo quản.
+ Trường hợp cần giao tài liệu, chứng cứ cho người thứ ba bảo quản thì Thẩm phán ra quyết định và lập biên bản giao cho người đó bảo quản. Người nhận bảo quản phải ký tên vào biên bản, được hưởng thù lao và phải chịu trách nhiệm về việc bảo quản tài liệu, chứng cứ theo quy định của pháp luật.
+ Nghiêm cấm việc hủy hoại tài liệu, chứng cứ.
Như vậy, để thu thập chứng cứ trong vụ án thì Tòa án chỉ có thể áp dụng một trong các biện pháp trên đây tùy theo tính chất vụ án hoặc theo yêu cầu của đương sự thực hiện. Việc thu thập chứng cứ là điều quan trọng để xác định các tội doanh và xử lý vụ án theo quy định của pháp luật trong dân sự.