Thừa kế có yếu tố nước ngoài, người để lại thừa kế là cá nhân nước ngoài hoặc người nhận thừa kế là cá nhân, pháp nhân nước ngoài; hoặc di sản thừa kế tồn tại ở nước ngoài; hoặc sự kiện chết xảy ra ở nước ngoài thì quan hệ thừa kể đó. Vậy việc lựa chọn pháp luật áp dụng vớ quan hệ thừa kế có yếu tố nước ngoài như thế nào?
Mục lục bài viết
1. Phương hướng chọn luật áp dụng với quan hệ thừa kế có yếu tố nước ngoài:
1.1. Quan hệ thừa kế có yếu tố nước ngoài là gì?
Theo quy định hiện hành, chỉ cần một trong các điều kiện như là: người để lại thừa kế là cá nhân nước ngoài hoặc người nhận thừa kế là cá nhân, pháp nhân nước ngoài; hoặc di sản thừa kế tồn tại ở nước ngoài; hoặc sự kiện chết xảy ra ở nước ngoài thì quan hệ thừa kể đó được coi là quan hệ thừa kế có yếu tố nước ngoài.
Thừa kế có yếu tố nước ngoài vẫn được hiểu chính là sự chuyển tài sản của người đã chết cho người còn sống, tài sản để lại được gọi là di sản. Thừa kế có yếu tố nước ngoài thì vẫn được chia thành thừa kế theo pháp luật và thừa kế theo di chúc. thừa kế theo di chúc là việc chuyển dịch tài sản thừa kế của người đã chết cho người còn sống theo sự định đoạt của người đó khi còn sống. Thừa kế theo pháp luật là việc dịch chuyển tài sản thừa kế của người đã chết cho người sống theo quy định của pháp luật nếu người chết không để lại di chúc hoặc di chúc không hợp pháp.
1.2. Phương hướng chọn luật áp dụng với quan hệ thừa kế có yếu tố nước ngoài:
Các nhà làm luật đã nghiên cứu và cho rằng có ba hướng để chọn luật áp dụng với quan hệ thừa kế có yếu tố nước ngoài, đó là:
Một là, khi chọn pháp luật điều chỉnh quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài, chúng ta sẽ chọn hệ thống pháp luật có quan hệ mật thiết với loại quan hệ cần giải quyết. Hay nói cách khác thì hệ thống pháp luật có quan hệ gắn bó với những vấn đề của thừa kế theo pháp luật. Khi chọn hệ thống pháp luật để điều chỉnh, chúng ta không nên bỏ qua ba yếu tố sau của quan hệ thừa kế theo pháp luật có yếu tố nước ngoài:
– Quan hệ thừa kế là một quan hệ tài sản và do đó có quan hệ với pháp luật nơi có tài sản do có sự chuyển dịch quyền sở hữu tài sản của người để lại thừa kế cho người còn sống.
– Quan hệ thừa kế là một quan hệ nhân thân và do đó có quan hệ với pháp luật nhân thân của người để lại thừa kế do có sự chuyển dịch quyền sở hữu tài sản của người để lại thừa kế cho người còn sống trên cơ sở huyết thống.
– Quan hệ thừa kế theo pháp luật cũng là quan hệ tài sản đối với người thứ ba do khi chết, người để lại thừa kế có thể cha chấm dứt các quan hệ dân sự thiết lập với các đối tác khác, nhất là quan hệ dân sự hợp đồng và quan hệ dân sự ngoài hợp đồng.
Hai là, khi chọn một hệ thống pháp luật để điều chỉnh quan hệ thừa kế theo pháp luật có yếu tố nước ngoài, các luật gia thường đưa ra một tiêu chí mà theo đó pháp luật của Toà án là pháp luật sẽ thường xuyên được áp dụng để giải quyết trong thực tế. Việc lựa chọn như vậy là bởi các lẽ: nếu cho phép pháp luật nước ngoài áp dụng để giải quyết vấn đề thừa kế theo pháp luật, Toà án cũng như các bên trong quan hệ thừa kế phải biết nội dung của pháp luật nước ngoài. Để biết nội dung pháp luật nước ngoài, Toà án hoặc các bên trong tranh chấp sẽ tự tìm hiểu và do không biết nội dung pháp luật nước ngoài nên Toà án cũng như các bên trong tranh chấp phải thuê chuyên gia về luật nước ngoài, đây là một việc khó và tốn kém.Bên cạnh đó thì toà án biết rõ pháp luật nước mình hơn pháp luật nước ngoài về thừa kế, do đó việc áp dụng thường xuyên pháp luật của Toà án sẽ làm giảm khó khăn trong công tác xét xử.
Chính vì hai lý do căn bản trên mà các nước sử dụng tiêu chí chọn luật khác nhau để làm sao pháp luật của Toà án có nhiều cơ hội áp dụng hơn pháp luật nước ngoài. Ba là, đối với di sản ở nước ngoài, bản án của Toà án sẽ có thể phải được thừa nhận ở nước nơi có di sản, nhất là khi di sản là bất động sản. Việc chọn pháp luật để điều chỉnh quan hệ thừa kế theo pháp luật có yếu tố nước ngoài nên tính đến việc làm thế nào để bản án của Toà án có nhiều cơ hội được thừa nhận ở nước ngoài nơi có di sản, nếu không việc đưa ra bản án cũng vô ích. Các nước đều đưa ra điều kiện để thừa nhận bản án nước ngoài. Mặt khác, khi di sản ở nước ngoài, công tác xét xử đôi khi phải dùng đến biện pháp uỷ thác tư pháp, do đó nên có chút thiện chí với hệ thống pháp luật nước ngoài nơi có di sản để các biện pháp uỷ thác có thể gặp thuận tiện.
2. Lựa chọn pháp luật áp dụng với quan hệ thừa kế có yếu tố nước ngoài:
Liên quan đến việc lựa chọn pháp luật áp dụng với quan hệ thừa kế có yếu tố nước ngoài thì ta căn cứ theo quy định tại điều 680 Bộ luật dân sự 2015, cụ thể quy định như sau: “Thừa kế được xác định theo pháp luật của nước mà người để lại di sản thừa kế có quốc tịch ngay trước khi chết”. Từ quy định này ta có thể thấy rằng đối với di sản được để lại mà người chết đã không có di chúc để lại hoặc có di chúc nhưng di chúc không hợp pháp thì di sản thừa kế sẽ được phân chia và các vấn đề liên quan sẽ được điều chỉnh bởi điều luật này. Hay nói một cách dễ hiểu hơn đó là khi xác định hàng thừa kế, diện thừa kế, thời điểm mở thừa kế, quyền và nghĩa vụ của người thừa kế, tài sản thừa kế… thì được xác định theo pháp luật của nước mà người để lại di sản thừa kế có quốc tịch ngay trước khi chết.
Bên cạnh đó thì việc di sản thừa kế là bất động sản cũng được xác định là phân chia theo đúng quy định của pháp luật của nước mà người để lại di sản thừa kế là công dân như tại khoản 1 điều 680 Bộ luật dân sự 2015. Tuy nhiên, bất động sản là loại tài sản gắn liền với đất đai, mà đất đai là một phần của lãnh thổ quốc gia, không thể sinh sôi, vì vậy việc thực hiện quyền thừa kế với loại tài sản này sẽ có những điểm khác biệt. Các nước trên thế giới có những cách nhìn nhận và tiếp cận khác nhau về vấn đề sở hữu bất động sản của người nước ngoài, theo đó có nước cho phép người nước ngoài được sở hữu bất động sản, có nước không cho phép, hoặc cũng có nước hạn chế quyền này.
Vấn đề về thừa kế có yếu tố nước ngoài không chỉ là thừa kế theo pháp luật mà nó còn liên quan đến việc thừa kế theo di chúc. Tại, Khoản 1 Điều 681 Bộ luật dân sự 2015 có quy định như sau: “Năng lực lập di chúc, thay đổi hoặc huỷ bỏ di chúc được xác định theo pháp luật của nước mà người lập di chúc có quốc tịch tại thời điểm lập, thay đổi hoặc hủy bỏ di chúc”.
Từ quy định này ta có thể hiểu rằng nếu một người là công dân nước ngoài thì năng lực lập di chúc, thay đổi, hủy bỏ di chúc do pháp luật nước họ là công dân quy định.
Để được coi là hợp pháp thì di chúc còn phải đảm bảo có một hình thức phù hợp. Tại, Khoản 2 Điều 681 Bộ luật dân sự 2015 có quy định như sau:
“Hình thức của di chúc được xác định theo pháp luật của nước nơi di chúc được lập. Hình thức của di chúc cũng được công nhận tại Việt Nam nếu phù hợp với pháp luật cùa một trong các nước sau đây:
Nước nơi người lập di chúc cư trú tại thời điểm lập di chúc hoặc tại thời điểm người lập di chúc chết;
Nước nơi người lập di chúc có quốc tịch tại thời điểm lập di chúc hoặc tại thời điểm người lập di chúc chết;
Nước nơi có bất động sản nếu di sản thừa kế là bất động sản.”
Từ quy định trên thì có thể thấy rằng khi xem xét tính hợp pháp về hình thức di chúc thì các cơ quan có thẩm quyền sẽ căn cứ trước hết vào pháp luật nước nơi lập di chúc. Nếu hình thức di chúc phù hợp với pháp luật đó thì di chúc hợp pháp về hình thức.
Tóm lại, khi thực hiện việc lựa chọn pháp luật áp dụng với quan hệ thừa kế có yếu tố nước ngoài thì phải đảm bảo người để lại di sản thừa kế có quốc tịch ngay trước khi chết thì áp dụng luật nước đó để chia di sản thừa kế theo pháp luật. Còn đối với hình thức thừa kế theo di chúc thì xác định theo pháp luật của nước mà người lập di chúc có quốc tịch tại thời điểm lập, thay đổi hoặc hủy bỏ di chúc. Việc áp dụng luật như trên là hoàn toàn phù hợp để đảm bảo cho quyền và lợi ích hợp pháp của người để lại di sản thừa kế cũng như người được hưởng di sản thừa kế.
Các văn bản pháp luật được sử dụng trong bài viết:
– Bộ luật Dân sự 2015