Thừa kế là quan hệ pháp luật dân sự được phát sinh khi người có tài sản chết. Dưới đây là những số điều kiện để cá nhân và tổ chức trở thành người thừa kế.
Mục lục bài viết
1. Điều kiện để cá nhân, tổ chức trở thành người thừa kế:
Theo quy định của pháp luật dân sự Việt Nam hiện hành thì người thừa kế bao gồm người thừa kế theo di chúc và người thừa kế theo pháp luật. Tuy nhiên nếu quá trình dịch chuyển này thực hiện dựa trên ý chí của người chết thể hiện trong nội dung di chúc mà họ để lại, thì sẽ được gọi là: Thừa kế theo di chúc và người được hưởng di sản thừa kế bằng hình thức dịch chuyển này sẽ được gọi là người thừa kế theo di chúc. Và ngược lại, sự dịch chuyển trên được thực hiện theo hàng thừa kế và theo trình tự thừa kế do pháp luật quy định căn cứ theo Điều 649 Bộ luật dân sự năm 2015 thì sẽ được gọi là thừa kế theo pháp luật, và những người được thừa kế di sản trong trường hợp này sẽ được gọi là người thừa kế theo pháp luật. Để được trở thành người thừa kế thì các chủ thể cũng cần phải đáp ứng được những điều kiện nhất định, cụ thể như sau:
1.1. Điều kiện để cá nhân trở thành người thừa kế:
Căn cứ theo quy định tại Điều 613 của Bộ luật dân sự năm 2015 thì cá nhân phải đáp ứng được những điều kiện sau đây mới có thể trở thành người thừa kế:
– Cá nhân đó phải còn sống vào thời điểm mở thừa kế, tức là thời điểm người có di sản qua đời. Trong trường hợp cá nhân sinh ra sau thời điểm mở thừa kế thì họ phải còn sống hoặc trước đó đã thành thai trước khi người để lại di sản chết;
– Cá nhân không được rơi vào trường hợp không được hưởng di sản thừa kế căn cứ theo quy định tại Điều 621 của Bộ luật dân sự năm 2015;
– Không rơi vào trường hợp bị người để lại di sản truất quyền hưởng di sản thừa kế. Trừ những trường hợp người hưởng di sản không phụ thuộc vào nội dung của di chúc căn cứ theo quy định tại Điều 644 của Bộ luật dân sự năm 2015 bao gồm những đối tượng như: con chưa thành niên của người chết, cha mẹ hoặc vợ chồng hợp pháp của người chết, hoặc con đã thành niên nhưng không có khả năng lao động trên thực tế.
1.2. Điều kiện để tổ chức trở thành người thừa kế:
Căn cứ theo quy định tại Điều 613 của Bộ luật dân sự năm 2015, thì để được trở thành người thừa kế, các tổ chức cũng cần phải đáp ứng được những điều kiện nhất định khi chia thừa kế theo di chúc. Theo đó thì trong trường hợp cơ quan và tổ chức được người để lại di sản chỉ định trong di chúc là những người thừa kế, phải đáp ứng được điều kiện đó là còn tồn tại và còn hoạt động vào thời điểm mở thừa kế, tức là thời điểm mà người để lại di sản chết. Nếu như những người được xác định là cơ quan và tổ chức được người chết chỉ định trong di chúc là người thừa kế, tuy nhiên không còn tồn tại vào thời điểm mở thừa kế thì các tổ chức này không được quyền hưởng di sản. Phần di sản của tổ chức này theo sự chỉ định của người chết sẽ được chia thừa kế theo pháp luật.
2. Những trường hợp cá nhân không được hưởng thừa kế:
Hiện nay căn cứ theo quy định tại Điều 621 của Bộ luật dân sự năm 2015, cá nhân sẽ không được quyền hưởng di sản nếu thuộc một trong những trường hợp dưới đây;
– Được xác định là các đối tượng bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm đến sức khỏe hoặc tính, ngược đãi nghiêm trọng hoặc có hành vi hành hạ người để lại di sản, xâm phạm nghiêm trọng đến danh dự và nhân phẩm của người để lại di sản;
– Người có hành vi vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ nuôi dưỡng đối với người để lại di sản;
– Người bị kết án về các hành vi cố ý xâm phạm đến tính mạng của những người đồng thừa kế khác nhằm mục đích chiếm một phần hoặc toàn bộ phần di sản mà đáng lẽ ra người đồng thừa kế đó sẽ được quyền hưởng;
– Những người có hành vi lừa dối hoặc cưỡng ép dưới bất kỳ hình thức nào hoặc có hành vi ngăn cản người để lại di sản trong việc lập di chúc, có hành vi giả mạo di chúc hoặc sửa chữa di chúc trái với nguyện vọng của người chết, hủy di chúc hoặc che giấu di chúc nhằm mục đích hưởng một phần hoặc toàn bộ di sản trái với ý muốn của người chết.
Nếu thuộc một trong những trường hợp nêu trên thì sẽ không được quyền hưởng di sản mà người chết để lại. Ngoài ra, trong trường hợp người để lại di chúc nêu rõ việc truất quyền thừa kế của cá nhân, thì cá nhân đó cũng không được quyền hưởng thừa kế, trừ các trường hợp cá nhân được hưởng thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc.
3. Người thừa kế theo pháp luật có thể là tổ chức hay không?
Căn cứ theo quy định tại Bộ luật dân sự năm 2015 thì thừa kế theo pháp luật là khái niệm để chỉ hoạt động chia thừa kế theo hàng thừa kế và theo trình tự thừa kế được ghi nhận tại Điều 651 của Bộ luật dân sự năm 2015. Trong trường hợp người chết không để lại di chúc, hoặc có để lại di chúc tuy nhiên di chúc đó không hợp pháp và không thỏa mãn đầy đủ các điều kiện có hiệu lực của di chúc được ghi nhận tại Điều 630 của Bộ luật dân sự năm 2015, hoặc những người thừa kế theo di chúc chết trước hoặc chết cùng thời điểm với người lập di chúc, cơ quan và tổ chức được hưởng thừa kế theo di chúc cũng không còn hoạt động và không còn tồn tại vào thời điểm mở thừa kế, những người được chỉ định là thừa kế theo di chúc không có quyền hưởng di chúc căn cứ theo quy định tại Điều 621 của Bộ luật dân sự năm 2015, hoặc từ chối nhận di sản theo nhu cầu của bản thân, thì phân tích sản đó sẽ được chia thừa kế theo pháp luật. Quá trình chia thừa kế theo pháp luật sẽ được thực hiện chia theo hàng thừa kế. Hàng thừa kế theo pháp luật hiện nay được ghi nhận với thứ tự như sau:
Những người thuộc hàng thừa kế thứ nhất theo quy định của pháp luật bao gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết;
Những người thuộc hàng thừa kế thứ hai theo quy định của pháp luật bao gồm: ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị ruột, em ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại;
Những người thuộc hàng thừa kế thứ ba theo quy định của pháp luật bao gồm: cụ nội, cụ ngoại của người chết; bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột; chắt ruột của người chết mà người chết là cụ nội, cụ ngoại.
Như vậy thì có thể nói, thừa kế theo pháp luật chỉ áp dụng với những đối tượng là cá nhân theo các hàng thừa kế nêu trên, và những người trong cùng hàng thừa kế thì sẽ được hưởng phần thừa kế ngang nhau. Vì vậy có thể kết luận, thừa kế theo pháp luật không bao gồm tổ chức và các doanh nghiệp … mà chỉ có thể là cá nhân. Điều luật này là phù hợp, bởi người thừa kế là người được nhận di sản của người đã chết theo di chúc hoặc theo pháp luật, hoặc vừa hưởng di sản theo di chúc và vừa hưởng di sản theo pháp luật. Người thừa kế theo di chúc có thể là cá nhân hoặc tổ chức. Tuy nhiên người thừa kế theo pháp luật chỉ có thể là cá nhân. Trường hợp này người chết không để lại di chúc cho nên pháp luật quy định những người được hưởng di sản phải là những người có quan hệ hôn nhân, quan hệ huyết thống hoặc quan hệ nuôi dưỡng với người chết. Rữa người chết và người còn sống họ có những quyền và nghĩa vụ pháp lý đối với nhau. Mặt khác, người thừa kế phần di sản họ còn phải gánh vác một nghĩa vụ đạo đức, phải thờ cúng cha mẹ, ông bà, tổ tiên – điều mà tổ chức không thể làm được.
Các văn bản pháp luật được sử dụng trong bài viết:
– Bộ luật Dân sự năm 2015.