Quyền sở hữu theo Bộ luật dân sự? Tư vấn trong trường hợp chuyển giao quyền sở hữu tài sản theo Bộ luật dân sự năm 2015?
Như chúng ta đã biết, trong quan hệ pháp luật dân sự thì những quy định về quan hệ dân sự và các giao dịch dân sự được thực hiện ngày càng rộng rãi hơn, Theo đó, chế định về tài sản và quyền sở hữu là hai loại chế định trở thành quan trọng nhất trong giao dịch dân sự. Quyền sở hữu được hiểu có thể hiểu là người có quyền sở dụng, chiếm đoạt tài sản mà họ đang sở hữu một cách hợp pháp theo pháp luật. Vậy trong
1. Quyền sở hữu theo Bộ luật dân sự?
Theo quy định của pháp luật thì quyền sở hữu bao gồm quyền chiếm hữu, quyền sử dụng và quyên định đoạt tài sản của chủ sở hữu theo quy định của pháp luật.
Thứ nhất là về quyền chiếm hữu:
– Khái niệm:
Được quy định tại Điều 179
– Phân loại:
Dựa vào ba tiêu chí khác nhau thì quyền chiếm hữu sẽ có cách phân loại khác nhau, cụ thể:
+ Dựa vào tính ngay tình của việc chiếm hữu, quyền chiếm hữu được chia ra làm hai loại:
Chiếm hữu không ngay tình thì được xác định đó là trường hợp người chiếm hữu đã biết hoặc pháp luật buộc họ phải biết là mình đang chiếm hữu tài sản của chủ thể khác nhưng không dựa trên cơ sở pháp luật.
Chiếm hữu ngay tình là áp dụng đối với các trường hợp mà người chiến hữu không biết và họ không thể bằng cách nào đó mà biết mình chiếm hữu không dựa trên cơ sở pháp luật.
Theo đó, đối với những trường hợp đòi hỏi người chiếm hữu biết hoặc phải biết về việc chiếm hữu của mình đang thực hiện đó là hành vi không ngay tình thì thường liên quan đến các loại tài sản có đăng ký quyền sở hữu như bất động sản, động sản mà pháp luật yêu cầu phải đăng ký quyền sở hữu;
Đối với loại tài sản thuộc sở hữu chung và các đồng chủ sở hữu thì phải thể hiện ý chí chuyển giao quyền cho người đang chiếm hữu tài sản của tất cả những người đồng sở hữu; liên quan đến việc chuyển giao quyền chiếm hữu của chủ thể không có quyền chuyển giao quyền chiếm hữu (người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự) thì phải có sự đồng ý của người đại diện theo pháp luật.
– Dựa vào tính liên tục của việc chiếm hữu, cũng được chia ra làm chiếm hữu liên tục và chiếm hữu không liên tục:
+ Chiếm hữu liên tục: được quy định tại Điều 182
Đồng thời, tính liên tục của chiếm hữu được ghi nhận bao gồm hai điều kiện: việc chiếm hữu diễn ra trong một khoảng thời gian nhất định; không có tranh chấp về quyền đối với tài sản hoặc có tranh chấp nhưng chưa được giải quyết bằng một bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của Toà án hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác.
+ Chiếm hữu không liên tục là việc một chủ thể chiếm hữu một tài sản không đảm bảo hai điều kiện của chiếm hữu liên tục như đã nêu ở trên.
– Dựa vào tính công khai của việc chiếm hữu:
Cách phân loại này được quy định tại Điều 183 Bộ luật Dân sự năm 2015, bao gồm hai loại như sau:
+ Chiếm hữu không công khai là việc mà chủ thể chiếm hữu tài sản nhưng không được thực hiện một cách minh bạch, mang yếu tố che giấu.
+ Chiếm hữu công khai tức là việc tài sản đang chiếm hữu được sử dụng đúng theo tính năng, công dụng và được người chiếm hữu hiện thời bảo quản, giữ gìn như tài sản của chính mình và việc chiếm hữu được thực hiện một cách công khai, minh bạch.
Thứ hai là về quyền sử dụng:
– Khái niệm:
Căn cứ theo Điều 189
– Phân loại:
+ Quyền sử dụng của chủ sở hữu:
Đối với quyền sử dụng của chủ sở hữu, thì chủ sở hữu được sử dụng tài sản theo ý chí của riêng mình chứ không phải hỏi ý kiến của người khác nhưng việc sử dụng không được gây thiệt hại hoặc làm ảnh hưởng đến lợi ích quốc gia, dân tộc, lợi ích công cộng, ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của người khác.
+ Quyền sử dụng của người không phải là chủ sở hữu: người không phải là chủ sở hữu sẽ được sử dụng tài sản theo sự thỏa thuận với chủ sở hữu hoặc theo các quy định của pháp luật.
Thứ ba là về quyền định đoạt:
– Khái niệm:
Căn cứ theo Điều 192 của Bộ luật Dân sự năm 2015 thì có quy định: quyền định đoạt tài sản là việc chủ sở hữu tài sản thực hiện việc chuyển giao quyền sở hữu tài sản cho người khác hoặc từ bỏ quyền sở hữu đó của mình.
Quyển định đoạt thực chất là việc định đoạt số phận “thực tế” hoặc “pháp lý” của một tài sản. Định đoạt “thực tế” là bằng hành vi của mình làm cho tài sản không còn như phá hủy, vứt bỏ…. Còn định đoạt pháp lý được hiểu là việc chuyển quyền sở hữu sang cho chủ thể khác như: tặng cho, mua bán…
– Điều kiện:
Đối với chủ thể của quyền định đoạt phải có năng lực hành vi dân sự. Đồng thời quyền định đoạt không có nghĩa tuyệt đối, trong những trường hợp nhất định mà pháp luật ràng buộc chủ thể có quyền định đoạt phải tuân theo những quy định để tránh vi phạm Hiến pháp và pháp luật và phải tuân theo trình tự, thủ tục về việc chuyển giao quyền định đoạt do pháp luật quy định.
– Phân loại:
Dựa vào chủ thể của quyền định đoạt pháp luật dân sự chia ra làm hai loại, cụ thể:
+ Quyền định đoạt của chủ sở hữu bao gồm: các quyền bán, trao đổi, cho vay, tặng cho, để cho người khác thừa kế, từ bỏ quyền sở hữu của mình, tiêu dùng, tiêu hủy hoặc thực hiện các hình thức định đoạt khác phù hợp với quy định của pháp luật dân sự đối với tài sản.
+ Quyền định đoạt của người không phải là chủ sở hữu
Đối với người không phải là chủ sở hữu tài sản chỉ có quyền định đoạt tài sản theo sự ủy quyền của chủ sở hữu hoặc theo các quy định của pháp luật.
Ta thấy quyền định đoạt tài sản là một quyền có vai trò rất quan trọng đối với chủ sở hữu, các quy định của pháp luật về quyền định đoạt là hợp lý để bảo vệ những quyền lợi vốn có của chủ sở hữu.
Với ba quyền năng cơ bản được pháp luật dân sự quy định như trên thì có thể thấy rằng: chủ sở hữu có toàn quyền quyết định đối với tài sản thuộc sở hữu của mình.
Như vậy, pháp luật dân sự Việt Nam đã định nghĩa rõ ràng về quyền sở hữu bằng phương pháp liệt kê chứ chưa đưa ra được một định nghĩa khái quát. Mặt khác, việc đưa khái niệm này vào Bộ luật dân sự 2015 ở nước ta là một điểm đặc biệt vì các nước trên thế giới chỉ đề cập tới khái niệm quyền sở hữu trong khoa học luật chứ không đưa vào luật thực định.
2. Chuyển giao quyền sở hữu tài sản theo Bộ luật dân sự năm 2015:
Tóm tắt câu hỏi:
Cho tôi hỏi là tôi có một cửa hàng tạp hóa tôi chuyển giao lại cửa hàng cho một người A với toàn bộ hàng hóa và cửa hàng. Cho đến nay hàng hóa đã hết hạn sử dụng thì người A có được quyền bắt tôi bồi thường số hàng hóa đã hết hạn sử dụng này không?
Luật sư tư vấn:
Theo như bạn trình bày, bạn có chuyển giao cửa hàng tạp hóa của bạn cùng với số hàng hóa có trong cửa hàng cho người A. Nay có một số hàng hóa trong cửa hàng đã hết hạn sử dụng, nay trách nhiệm bồi thường như thế nào?
Trước tiên, bạn xem lại hợp đồng giữa bạn và người A có điều khoản quy định về trường hợp này hay không? Nếu có điều khoản quy định thì sẽ thực hiện theo
Nếu không có điều khoản quy định cụ thể trường hợp này, theo quy định tại Điều 238 Bộ luật dân sự 2015 quy định như sau:
“Điều 238. Chủ sở hữu chuyển giao quyền sở hữu của mình cho người khác
Khi chủ sở hữu chuyển giao quyền sở hữu của mình cho người khác thông qua
Như vậy, nếu gia đình bạn chuyển giao quyền sở hữu cả cửa hàng và hàng hoá cho người A, và họ đã thanh toán đủ tiền thì bạn đã chấm dứt quyền và nghĩa vụ đối với số hàng hoá đó, bạn sẽ không có trách nhiệm đối với số hàng hóa đã hết hạn sử dụng.
Nếu trường hợp họ chưa thanh toán xong, bên bán có thể bảo lưu quyền sở hữu tài sản cho đến khi nghĩa vụ thanh toán được thực hiện đầy đủ. Tuy nhiên, trong khoảng thời gian bảo lưu đó, bên mua tài sản có nghĩa vụ chịu rủi ro về tài sản trong thời hạn bảo lưu quyền sở hữu, trừ trường hợp có thỏa thuận khác. Do đó, nếu các bên không có thỏa thuận khác thì sau khi bạn chuyển nhượng cửa hàng và hàng hoá cho bên A, bên A không có quyền yêu cầu bạn bồi thường những hàng hoá đã hết hạn sử dụng.