Cung cấp các thông tin liên quan đến các trường hợp không áp dụng thời hiệu khởi kiện về thừa kế.
Thời hiệu là thời hạn do pháp luật quy định mà khi kết thúc thời hạn đó thì chủ thể được hưởng quyền dân sự, được miễn trừ nghĩa vụ dân sự hoặc mất quyền khởi kiện vụ án dân sự, quyền yêu cầu giải quyết việc dân sự. Trong các loại thời hiệu có thời hiệu thừa kế. Đây chính là thời hạn mà chủ thể được quyền khởi kiện để yêu cầu Tòa án, cơ quan Nhà nước có thẩm quyền bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm phạm, nếu quá thời hạn đó mà chủ thể không thực hiện quyền của mình thì họ sẽ mất quyền khởi kiện. Theo đó tại Điều 645 về thời hiệu khởi kiện về thừa kế tại “Bộ luật dân sự 2015” đã ghi nhận như sau:
“Thời hiệu khởi kiện để người thừa kế yêu cầu chia di sản, xác nhận quyền thừa kế của mình hoặc bác bỏ quyền thừa kế của người khác là mười năm, kể từ thời điểm mở thừa kế.
Thời hiệu khởi kiện để yêu cầu người thừa kế thực hiện nghĩa vụ về tài sản của người chết để lại là ba năm, kể từ thời điểm mở thừa kế”.
Như vậy, sau khi hết thời hiệu 10 năm thì không được yêu cầu chia di sản, xác nhận quyền thừa kế của mình hay bác bỏ quyền thừa kế của người khác. Cũng như vậy, sau khi hết thời hiệu 3 năm, kể từ thời điểm mở thừa kế thì cá nhân, tổ chức không còn quyền yêu cầu người thừa kế thực hiện nghĩa vụ tài sản của người chết. Việc quy định như vậy nhằm hạn chế những tranh chấp đã trải qua một thời gian dài. Tuy nhiên, đây là một trong rất nhiều điều luật của pháp luật Việt Nam có ngoại lệ. Nếu như tại “Bộ luật dân sự 2015” quy định về thời hiệu như vậy, thì để giải quyết những khúc mắc có thể xảy ra thì tại Nghị quyết số 02/2004/NQ-HĐTP, nghị quyết của Hội đồng thẩm phán
“2.4. Không áp dụng thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế
a) Trường hợp trong thời hạn mười năm, kể từ thời điểm mở thừa kế mà các đồng thừa kế không có tranh chấp về quyền thừa kế và có văn bản cùng xác nhận là đồng thừa kế hoặc sau khi kết thúc thời hạn mười năm mà các đồng thừa kế không có tranh chấp về hàng thừa kế và đều thừa nhận di sản do người chết để lại chưa chia thì di sản đó chuyển thành tài sản chung của các thừa kế. Khi có tranh chấp và yêu cầu Toà án giải quyết thì không áp dụng thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế, mà áp dụng các quy định của pháp luật về chia tài sản chung để giải quyết và cần phân biệt như sau:
a.1. Trường hợp có di chúc mà các đồng thừa kế không có tranh chấp và thoả thuận việc chia tài sản sẽ được thực hiện theo di chúc khi có nhu cầu chia tài sản, thì việc chia tài sản chung đó được thực hiện theo di chúc.
a.2. Trường hợp không có di chúc mà các đồng thừa kế thảo thuận về phần mỗi người được hưởng khi có nhu cầu chia tài sản, thì việc chia tài sản chung đó được thực hiện theo thoả thuận của họ.
a.3. Trường hợp không có di chúc và các đồng thừa kế không có thoả thuận về phần mỗi người được hưởng khi có nhu cầu chia tài sản, thì việc chia tài sản chung đó được thực hiện theo quy định của pháp luật về chia tài sản chung.
b) Trường hợp người chết để lại di sản cho các thừa kế nhưng các thừa kế không trực tiếp quản lý, sử dụng mà di sản đó đang do người khác chiếm hữu bất hợp pháp hoặc thuê, mượn, quản lý theo uỷ quyền… thì các thừa kế có quyền khởi kiện người khác đó để đòi lại di sản.”
>>> Luật sư
Qua những quy định tại Nghị quyết số 02/2004/NQ-HĐTP đã góp phần giải quyết những khúc mắc mà “Bộ luật dân sự 2015” đã đặt ra. Trên thực tế có rất nhiều vụ việc xảy ra dù đã hết thời hạn nhưng thuộc vào các trường hợp quy định tại Nghị quyết 02/2004/NQ-HĐTP thì tổ chức, cá nhân vẫn có quyền khởi kiện và tòa án vẫn thụ lí giải quyết.