Vì là hành vi chấm dứt hợp đồng theo ý chí của một bên, bên hủy bỏ hợp đồng cần phải thực hiện thủ tục hủy bỏ hợp đồng theo đúng căn cứ, thủ tục mà pháp luật quy định. Vậy các trường hợp hủy bỏ hợp đồng không phải bồi thường bao gồm những trường hợp nào?
Mục lục bài viết
1. Các trường hợp huỷ bỏ hợp đồng không phải bồi thường:
Trước hết, pháp luật dân sự Việt Nam có sự phân biệt rõ ràng giữa khái niệm hủy bỏ hợp đồng và khái niệm chấm dứt hợp đồng. Căn cứ theo quy định tại Điều 422 của Bộ luật dân sự năm 2015 có quy định về các trường hợp làm chấm dứt hợp đồng, bao gồm:
– Hợp đồng đã được hoàn thành trên thực tế;
– Theo sự thỏa thuận của các bên giao kết hợp đồng;
– Cá nhân giao kết hợp đồng chết hoặc pháp nhân giao kết hợp đồng chấm dứt tồn tại, mà hợp đồng đó phải do chính các chủ thể đó thực hiện;
– Hợp đồng bị hủy bỏ, hợp đồng bị đơn phương chấm dứt thực hiện;
– Hợp đồng không thể thực hiện được do đối tượng của hợp đồng không còn;
– Hợp đồng chấm dứt căn cứ theo quy định tại Điều 420 của Bộ luật dân sự năm 2015;
– Trường hợp khác do pháp luật quy định.
Theo đó phải hủy bỏ hợp đồng chỉ là một trong số các trường hợp chấm dứt hợp đồng. Dù xét về mặt ngữ nghĩa hay về mặt pháp lý thì cũng có thể định nghĩa về vấn đề hủy bỏ hợp đồng: Hủy bỏ hợp đồng là ý chỉ đơn phương của một bên trong hợp đồng về việc triệt tiêu hiệu lực của một hợp đồng đang có giá trị thi hành để có thể đưa các bên về trạng thái ban đầu như chưa từng có hợp đồng xảy ra. Bên cạnh đó, pháp luật hiện nay cũng đã có những quy định về quyền hủy bỏ hợp đồng mà không phải chịu trách nhiệm bồi thường.
Theo đó, một bên có quyền hủy bỏ hợp đồng và không phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong một số trường hợp nhất định. Căn cứ theo quy định tại Điều 423 của Bộ luật dân sự năm 2015 có quy định về các trường hợp hủy bỏ hợp đồng mà không phải bồi thường. Cụ thể như sau:
– Một bên vi phạm hợp đồng là điều kiện hủy bỏ mà các bên đã thỏa thuận. Vi phạm hợp đồng của một bên có thể là toàn bộ hoặc một phần nghĩa vụ, hành vi vi phạm đó có thể nghiêm trọng hoặc không nghiêm trọng, nhưng khi vấn đề vi phạm đó được xác định là điều kiện hủy bỏ mà các bên đã thỏa thuận trong hợp đồng thì hợp đồng đó sẽ chấm dứt. Theo đó khi một bên vi phạm hợp đồng thì bên còn lại có thể tuyên bố hủy bỏ hợp đồng, tuy nhiên trừ khi đó là vi phạm nghiêm trọng thì những vi phạm khác không phải lúc nào cũng là căn cứ để hủy bỏ hợp đồng, mà chỉ khi vi phạm đó là điều kiện hủy bỏ hợp đồng mà các bên đã thỏa thuận ban đầu. Quy định này nhằm mục đích bảo vệ quyền lợi của bên bị hủy bỏ hợp đồng, bởi nếu không có điều kiện này thì việc hủy bỏ hợp đồng rất dễ bị bên có quyền hủy bỏ lợi dụng để gây ra bất lợi cho bên vi phạm hợp đồng. Tuy nhiên, không phải bất cứ sự thỏa thuận nào cũng có thể hiểu là điều kiện hủy bỏ hợp đồng, những sự kiện đã được thỏa thuận phải là sự vi phạm hợp đồng thì mới là điều kiện hủy bỏ. Như vậy, căn cứ hủy bỏ hợp đồng trong trường hợp này cần phải đáp ứng đầy đủ các yêu cầu sau: Các bên có thỏa thuận về điều kiện hủy bỏ hợp đồng phải có sự vi phạm hợp đồng của một bên, thời điểm các bên thỏa thuận về điều kiện hủy bỏ hợp đồng diễn ra trước khi sự kiện đó nảy sinh;
– Một bên trong hợp đồng vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ hợp đồng. Vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ hợp đồng được xem là việc thực hiện không đúng nghĩa vụ mà các bên đã thỏa thuận với nhau làm cho mục đích của bên còn lại không thể đạt được;
– Hủy bỏ hợp đồng do chậm thực hiện nghĩa vụ. Căn cứ theo quy định tại Điều 424 của Bộ luật dân sự năm 2015 có quy định, trong trường hợp bên có nghĩa vụ không thực hiện đúng nghĩa vụ mà bên có quyền yêu cầu thực hiện trong một khoảng thời gian nhất định thì bên có quyền có thể hủy hợp đồng. Theo đó, khi giao kết hợp đồng, nếu vụ được thỏa thuận không thể kéo dài mãi mãi và sẽ phải có thời gian thực hiện nhất định phải được thỏa thuận dựa trên tính chất của hợp đồng và nhằm đạt được lợi ích tối đa của các bên tham gia giao kết hợp đồng. Khi bên có nghĩa vụ ban đầu không thực hiện được đúng nghĩa vụ, việc không thực hiện đúng nghĩa vụ này không phải là hành vi vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ hợp đồng (khiến cho bên còn lại không đạt được mục đích khi giao kết hợp đồng) thì bên có quyền có thể yêu cầu bên có nghĩa vụ thực hiện đúng nghĩa vụ của mình trong một khoảng thời gian nhất định, mà bên có quyền cho rằng đó là thời gian hợp lý để bảo đảm được quyền lợi của mình. Tuy nhiên, nếu như đã hết thời hạn được gia hạn mà bên có nghĩa vụ vẫn không thực hiện được nghĩa vụ của mình thì bên có quyền có thể yêu cầu tuyên bố hủy bỏ hợp đồng do bên có nghĩa vụ đã vi phạm vào trường hợp “chậm thực hiện nghĩa vụ” là căn cứ phát sinh hủy bỏ hợp đồng;
– Hủy bỏ hợp đồng do không đạt được mục đích. Căn cứ theo quy định tại khoản 2 Điều 424 của Bộ luật dân sự năm 2015 có quy định, trường hợp do tính chất của hợp đồng hoặc do ý chí của các bên, hợp đồng sẽ không đạt được mục đích nếu như không thực hiện trong một khoảng thời gian nhất định, mà hết thời hạn đó, bên có nghĩa vụ không thực hiện đúng nghĩa vụ của mình thì bên còn lại có quyền hủy bỏ hợp đồng. Theo đó, chỉ cần đó là vi phạm về vấn đề chậm thực hiện nghĩa vụ, tùy vào tính chất và mục đích hướng đến của bên có quyền khi giao kết hợp đồng mà bên có quyền có thể tuyên bố hủy bỏ hợp đồng. Nếu hành vi vi phạm thời hạn thực hiện nghĩa vụ của bên có nghĩa vụ ảnh hưởng lớn đến bên kia, làm cho bên còn lại không thể đạt được mục đích khi giao kết hợp đồng thì bên có quyền có quyền tuyên bố hủy bỏ hợp đồng ngay sau khi phát hiện ra hành vi vi phạm mà không cần phải gia hạn thêm một thời hạn hợp lý;
– Hủy bỏ hợp đồng do không có khả năng thực hiện. Căn cứ theo quy định tại Điều 425 của Bộ luật dân sự năm 2015, trong trường hợp bên có nghĩa vụ không thể thực hiện được một phần hoặc không thể thực hiện được toàn bộ nghĩa vụ của mình làm cho mục đích của bên có quyền không thể đặt được thì bên có quyền có thể hủy bỏ hợp đồng và yêu cầu bồi thường thiệt hại. Việc bên có nghĩa vụ không thể thực hiện được nghĩa vụ của mình có thể xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác nhau như xảy ra sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan, không đủ tìm năng về tài chính, không đủ kiến thức và kỹ năng chuyên môn, bị khởi tố hoặc bị bắt giam … Đặc biệt trường hợp bất khả kháng thuộc trường hợp được loại trừ trách nhiệm dân sự căn cứ theo quy định tại Điều 351 của Bộ luật dân sự năm 2015. Trường hợp bất khả kháng thuộc trường hợp được loại trừ trách nhiệm dân sự theo đó, nếu bên có nghĩa vụ không thực hiện được nghĩa vụ do bất khả kháng thì sẽ không phải chịu trách nhiệm bồi thường;
– Đối tượng của hợp đồng không còn. Căn cứ theo quy định tại Điều 426 của Bộ luật dân sự năm 2015 có quy định, trường hợp một bên làm mất hoặc làm hư hỏng tài sản là đối tượng của hợp đồng mà không có khả năng hoàn trả hoặc đền bù bằng tài sản khác, tài sản đó không thể sửa chữa hoặc thay thế bằng tài sản cùng loại thì bên kia có quyền hủy bỏ hợp đồng. Theo đó, trong trường hợp thực hiện hợp đồng, nếu một bên làm mất hoặc làm hư hỏng tài sản là đối tượng của hợp đồng thì cần phải tìm tài sản tương tự để thay thế, nếu như tài sản hư hỏng cần phải sửa chữa hoặc nếu không thể sửa chữa thì có thể thay thế bằng tài sản cùng loại. Tuy nhiên, có những tài sản là đối tượng của hợp đồng mà một khi đã mất mát hay hư hỏng thì sẽ không thể sửa chữa, thay thế. Khi đó, đối tượng của hợp đồng không còn, bên có quyền sẽ không thể đạt được mục đích khi tham gia giao dịch của mình. Đối với loại tài sản này, nếu một bên làm mất hoặc hư hỏng thì bên kia có quyền hủy bỏ hợp đồng. Trong trường hợp này, bên hủy bỏ hợp đồng không phải bồi thường thiệt hại. Ngược lại, bên đó có quyền yêu cầu bên kia bồi thường thiệt hại bằng tiền nâng giá với giá trị tài sản bị mất mát hoặc hư hỏng, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác, do sự kiện bất khả kháng, không có lỗi trong việc không thực hiện được nghĩa vụ;
– Hủy bỏ hợp đồng trong trường hợp khác theo quy định của pháp luật. Tức là căn cứ vào các luật chuyên ngành như
2. Quy trình tiến hành hoạt động hủy bỏ hợp đồng:
Để có thể hủy bỏ hợp đồng đúng quy định của pháp luật. Cần phải được thực hiện theo quy trình như sau:
– Xem xét lại các điều khoản trong hợp đồng mà các bên đã ký kết ban đầu. Khi xem xét lại các điều khoản trong hợp đồng thì cần phải đặc biệt tập trung đến các điều khoản liên quan về hiệu lực của hợp đồng. Các điều khoản này thường nêu rõ các trường hợp có thể hủy bỏ hợp đồng, thời hạn thông báo bắt buộc và các chế tài xử lý khi có hành vi vi phạm;
– Chuẩn bị các loại giấy tờ và tài liệu cần thiết để hủy bỏ hợp đồng. Các loại tài liệu cần phải chuẩn bị cho việc hủy bỏ hợp đồng có thể bao gồm các bản sao của hợp đồng gốc, sửa đổi hợp đồng hoặc
– Thực hiện nghĩa vụ thông báo cho bên còn lại. Căn cứ theo quy định tại Điều 423 của Bộ luật dân sự năm 2015 thì bên hủy bỏ hợp đồng sẽ phải thông báo cho bên còn lại biết về việc hủy bỏ hợp đồng, nếu không thông báo mà gây ra thiệt hại thì sẽ phải chịu trách nhiệm bồi thường.
3. Hậu quả pháp lý của trường hợp huỷ bỏ hợp đồng:
Thứ nhất, làm chấm dứt hiệu lực của hợp đồng kể từ thời điểm giao kết. Căn cứ theo quy định tại Điều 427 của Bộ luật dân sự năm 2015 có quy định, khi hợp đồng bị hủy bỏ thì hợp đồng đó không có hiệu lực được tính kể từ thời điểm giao kết, các bên sẽ không phải thực hiện nghĩa vụ đã thỏa thuận ban đầu, chưa thỏa thuận về phạt vi phạm, thỏa thuận về bồi thường thiệt hại và các thỏa thuận về giải quyết tranh chấp.
Thứ hai, làm phát sinh nghĩa vụ hoàn trả của các bên. Nghĩa vụ hoàn trả của các bên ký hợp đồng bị hủy bỏ hiện nay được quy định tại khoản 2 Điều 427 của Bộ luật dân sự năm 2015, theo đó các bên sẽ phải hoàn trả cho nhau những gì đã nhận ngay sau khi trừ đi các chi phí hợp lý trong quá trình thực hiện hợp đồng và các chi phí bảo quản, phát triển tài sản. Việc hoàn trả trong trường hợp này sẽ phải được thực hiện bằng hiện vật, trong trường hợp không thể hoàn trả bằng hiện vật thì sẽ được trị giá thành tiền để hoàn trả. Trong trường hợp các bên cùng có nghĩa vụ hoàn trả tiền thì phải được thực hiện tại cùng một thời điểm nhất định, chưa trường hợp các bên có thỏa thuận khác và pháp luật liên quan có quy định khác.
Thứ ba, làm phát sinh các hậu quả liên quan đến quyền nhân thân. Việc giải quyết hậu quả của quá trình hủy bỏ hợp đồng liên quan đến quyền nhân thân do Bộ luật dân sự năm 2015 và các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan quy định. Ngoài các chế định liên quan đến vi phạm nghĩa vụ, tài sản hay bồi thường thiệt hại, pháp luật về dân sự hiện nay còn có quy định mới về quyền nhân thân. Theo đó, sau khi hủy bỏ hợp đồng, nếu như phát sinh những hậu quả pháp lý liên quan đến quyền nhân thân, ví dụ như: Danh dự, nhân phẩm, uy tín … thì đều sẽ được xem xét giải quyết bồi thường theo quy định tại Bộ luật dân sự năm 2015 hoặc các văn bản pháp luật chuyên ngành có liên quan.
Các văn bản pháp luật được sử dụng trong bài viết:
– Bộ luật Dân sự năm 2015.