Để đảm bảo được quyền lợi và hạn chế một số vấn đề xảy ra thì các nước trên thế giới đã tham gia thành lập nhiều tổ chức kinh tế, hoặc xây dựng những hiệp định... Trong bài viết này chúng ta sẽ tìm hiểu về hiệp định CEPT.
Mục lục bài viết
1. Hiệp định CEPT là gì?
Hiệp định CEPT một thuật ngữ được nhiều doanh nghiệp hay các cơ quan tổ chức kinh tế hoạt động kinh doanh quan tâm. Theo đó, Hiệp định về chương trình Thuế quan ưu đãi có hiệu lực chung cho khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA). Hiệp định CEPT được thông qua tại Hội nghị Thượng đỉnh ASEAN lần thứ IV vào tháng 01/1992 diễn ra tại Singapore.
Nội dung của Hiệp định CEPT chủ yếu đề ra lịch trình 15 năm giảm thuế quan để tiến tới khu vực mậu dịch Tự do ASEAN. Theo đó, mỗi nước phải đệ trình các Danh mục giảm thuế, danh mục loại trừ hoàn toàn, danh mục loại trừ tạm thời nhằm tiến đến mục đích chung là giảm thuế hầu hết các mặt hàng xuống từ 0 đến 5%.
2. Những thuật ngữ pháp lý liên quan dịch sang tiếng Anh:
Hiệp định CEPT | Common Effective Preferential Tariff |
Ưu đãi | Endow |
Thuế quan | Tariffs |
Hiệu lực | Entry into force |
3. Hiệp định chương trình ưu đãi thuế quan có hiệu lực chung:
Thứ nhất, các quốc gia thành viên thỏa thuận Chương trình cắt giảm thuế quan ưu đãi có hiệu lực như sau:
- Giảm các mức thuế quan xuống còn 20% trong thời kỳ 5 năm tới 8 năm, kể từ ngày 01-01-1993, tùy thuộc vào Chương trình cắt giảm thuế quan do từng quốc gia thành viên lập nên, được cơ quan có thẩm quyền phê duyệt và sẽ được
thông báo khi được công bố vào lúc bắt đầu chương trình. Khuyến khích các quốc gia thành viên áp dụng mức cắt giảm hàng năm theo công thức (X-20)%/5 hoặc 8 năm, trong đó X là mức thuế quan hiện hành tại mỗi quốc gia thành viên. - Sau đó giảm mức thuế 20% hoặc thấp hơn trong thời hạn 7 năm. Mức cắt giảm tối thiểu là 5% lượng được cắt giảm. Chương trình cắt giảm thuế quan sẽ được các quốc gia thành viên quyết định và tuyên bố khi bắt đầu chương trình.
- Đối với các sản phẩm có mức thuế là 20% hoặc thấp hơn, kể từ ngày 01-01-1993, các quốc gia thành viên sẽ quyết định chương trình cắt giảm thuế quan, và công bố ngày bắt đầu áp dụng chương trình cắt giảm. Hai hoặc nhiều quốc gia thành viên có thể thỏa thuận cắt giảm thuế quan xuống còn 0-5% cho các sản phẩm cụ thể với tốc độ nhanh hơn khi bắt đầu Chương trình.
Như vậy, lợi ích của việc áp dụng cắt giảm thuế quan ưu đãi của CEPT sẽ mang lại nhiều lợi ích tích cực cho Việt Nam, cụ thể như sau:
- Tăng khả năng cạnh tranh chất lượng, chủng loại, mẫu mã, giá cả của hàng hóa Việt Nam so với hàng hóa các nước ASEAN khi có nhiều hàng hóa nước ta trước kia vì thuế trước kia cao mà chưa được đưa ra thị trường và thị trường nước ngoài ASEAN. Nay đã có thể đưa ra nước ngoài với số lượng nhiều hơn, từ đó giúp cho các doanh nghiệp tại nước ta cũng tăng sản lượng.
- Tăng luồng đầu tư nước ngoài (FDI) vào Việt Nam và cơ hội việc làm của người lao động, giải quyết được số lượng lớn người lao động đang thất nghiệp, đồng thời còn tăng chất lượng cuộc sống.
- Việc giảm thuế nhập khẩu đối với nguyên liệu đầu vào của sản xuất sẽ làm giảm chi phí và giá thành sản phẩm, dẫn đến tăng khả năng cạnh tranh và khả năng sản xuất. Bên cạnh đó, nhiều nguyên liệu chất lượng cao được đưa vào nước ta để tạo ra nhiều sản phẩm chất lượng phục vụ cho đời sống hằng ngày của người dân trong nước, nâng cao sức khỏe và tinh thần.
Thứ hai, các sản phẩm đã đạt tới hoặc đang có mức thuế suất là 20% hoặc thấp hơn, sẽ nghiễm nhiên được hưởng các ưu đãi.
Thứ ba, các chương trình cắt giảm thuế quan trên đây không ngăn cản các quốc gia thành viên cắt giảm ngay lập tức mức thuế quan của mình xuống còn 0-5% hoặc áp dụng một chương trình rút ngắn việc cắt giảm thuế quan.
Ngoài ra, các nước thành viên ASEAN có quyền lựa chọn loại trừ một số sản phẩm ra khỏi CEPT trong ba trường hợp:
- Loại trừ tạm thời: Áp dụng với những sản phẩm mà các nước chưa chuẩn bị để cắt giảm thuế, bao gồm các sản phẩm thuộc lĩnh vực chất dẻo, xe tải, và hoá chất.
- Những sản phẩm nông nghiệp nhạy cảm: được mở rộng thời hạn đến năm 2010 để hoà nhập vào chương trình CEPT.
- Loại trừ: Áp dụng với những sản phẩm mà một nước cho rất cần thiết nhằm bảo vệ an ninh quốc gia, đạo đức xã hội, bảo vệ cuộc sống và sức khoẻ của con người, động vật hay thực vật và bảo vệ các đối tượng có giá trị mỹ thuật lịch sử hay khảo cổ học. Khoảng 1% các hạng mục thuế ASEAN thuộc loại này.
Bên cạnh đó, để đáp ứng các ưu đãi, nước thành viên, ASEAN nhập khẩu phải đảm bảo rằng.
– Sản phẩm đó có trong Inclusion List của nước thành viên xuất khẩu.Thuế suất tại nước thành viên xuất khẩu cho sản phẩm đó là bằng hoặc dưới 20%.
– Nếu thuế suất của nước thành viên xuất khẩu cao hơn 20%, ưu đãi chỉ có thể được cho hưởng khi thuế xuất CEPT của nước thành viên nhập khẩu cũng cao hơn 20% bất kể có hay không việc cắt giảm thuế trong đó.
4. Một số quy định trong Hiệp định CEPT:
Thứ nhất, các điều khoản chung
- Tất cả các Quốc gia thành viên sẽ tham gia Chương trình CEPT đều phải tuân theo nguyên tắc làm việc và các hoạt động được quy định trong hiệp định. Những thành viên mới tham gia cũng sẽ phải tuân thủ theo các nguyên tắc này.
- Việc xác địnhcác sản phẩm để đưa vào Chương trình CEPT sẽ dựa trên cơ sở nhóm sản phẩm, tức là ở mức HS 6 chữ số. Hiện nay tại nước ta sẽ có một số loại hàng hóa sau đây:
+ Cà phê, chưa rang, chưa khử chất cafein
+ Máy tính xách tay, nhỏ hơn 10 kg
+ Giày dép thể thao, đế ngoài bằng cao su/plastic, mũ giày bằng vật liệu dệt
+ Điện thoại cho mạng di động hoặc mạng không đây khác
+ Giày dép khác, có đế ngoài bằng cao su/plastic, mũ giày bằng da thuộc
+ Các bộ phận và phụ tùng khác của xe mô tô bao gồm cả xe gắn máy có bàn đạp
+ Giày dép khác, có đế ngoài bằng cao su/plastic, mũ giày bằng da thuộc, cổ cao quá mắt cá chân
+ Giày dép khác, mũ và đế ngoài bằng cao su/ plastic
- Cho phép loại trừ không đưa vào áp dụng một số sản phẩm cụ thể ở mức HS 8/9 chữ số đối với những quốc gia thành viên tạm thời chưa sẵn sàng đưa các sản phẩm đó vào Chương trình CEPT. Theo qui định tại Điều 1 (3) của Hiệp định khung về tăng cường hợp tác kinh tế ASEAN, một Quốc gia thành viên được phép loại trừ các sản phẩm cụ thể mang tính nhạy cảm đối với Quốc gia Thành viên đó ra khỏi Chương trình CEPT, nhưng phải từ bỏ các ưu đãi đối với những sản phẩm đó theo quy định của Hiệp định này. Những sản phẩm loại trừ tạm thời đó sẽ dần dần phải được đưa vào Chương trình CEPT trước ngày 1/1/2000.
- Một sản phẩm được coi là có xuất xứ từ các Quốc gia thành viên ASEAN nếu trong thành phần của sản phẩm đó có chứa ít nhất 40% hàm lượng có xuất xứ từ bất cứ một Quốc gia thành viên ASEAN nào. Tức là một hàng hóa cà phê, chưa rang, chưa khử trùng của nước ta sẽ có đến 100% là hàm lượng xuất xứ của nước ta, hoặc điện thoại cho mạng di động hoặc mạng không dây khác thì sẽ có hơn 40% các thiết bị, con chíp, phần mềm được sản xuất tại nước ta…Trường hợp dưới 40% thì sẽ không được coi là sản phẩm có xuất xứ từ quốc gia ASEAN và không được áp dụng giảm thuế quan.
- Tất cả các sản phẩm chế tạo, bao gồm hàng tư liệu sản xuất và nông sản chế biến sẽ nằm trong Chương trình CEPT. Những sản phẩm này sẽ nghiễm nhiên được đưa vào Chương trình cắt giảm thuế quan theo qui định tại Điều 4 của Hiệp định. Đối với những sản phẩm thuộc diện PTA, sẽ áp dụng chương trình cắt giảm thuế quan quy định tại Điều 4A của Hiệp định, có xem xét tới mức thuế quan sau khi đã áp dụng mức ưu đãi (MOP) kể từ ngày 31/12/1992.
- Tất cả các sản phẩm thuộc diện PTA không nằm trong danh mục cắt giảm thuế theo Chương trình CEPT thì sẽ tiếp tục được hưởng MOP hiện có tính từ ngày 31/12/1992.
- Các Quốc gia thành viên đã thực hiện cắt giảm thuế từ 20% và thấp hơn xuống 0-5% đối với các sản phẩm đã được thpả thuận, mặc dù đã được hưởng quy chế tối huệ quốc (MFN), vẫn sẽ được hưởng các ưu đãi. Các Quốc gia thành viên có mức thuế quan ở mức thuế MFN là 0-5%, sẽ được coi là đã hoàn thành các nghĩa vụ theo Hiệp định CEPT và cũng được hưởng các ưu đãi.
Thứ hai, phạm vi sản phẩm
Hiệp định CEPT được áp dụng đối với mọi sản phẩm chế tạo, kể cả sản phẩm tư liệu sản xuất, và nông sản.
– Sản phẩm chế tạo là những sản phẩm được sử dụng những nguyên liệu, vật liệu để tạo ra sản phẩm hoàn chỉnh. Những sản phẩm này có thể là máy móc, thiệt bị, linh kiện máy móc…để có thể thêm vào hoàn thiện một sản phẩm nào đó như điện thoại, ô tô, mô tô, túi, giày dép…
– Sản phẩm tư liệu sản xuất là tài sản hữu hình mà một doanh nghiệp sản xuất và sau đó được một doanh nghiệp thứ hai sử dụng để sản xuất hàng hóa hoặc dịch vụ tiêu dùng. Bao gồm các tư liệu hữu hình như máy móc, phương tiện và công cụ mà một tổ chức sử dụng để sản xuất hàng hóa hoặc dịch vụ.
– Nông sản là những sản phẩm hoặc bán thành phẩm của ngành sản xuất hàng hóa thông qua cây trồng và phát triển của cây trồng. Sản phẩm nông nghiệp bao gồm nhiều nhóm hàng thực phẩm, tơ sợi, nhiên liệu, nguyên liệu, dược phẩm.
Thứ tư, các biện pháp khẩn cấp
– Nếu như, do việc thực hiện Hiệp định CEPT, việc nhập khẩu một sản phẩm cụ thể được phép theo Chương trình CEPT tăng lên gây ra hoặc đe doạ gây ra sự tổn hại nghiêm trọng tới ngành sản xuất sản phẩm tương tự hoặc trực tiếp cạnh tranh tại Quốc gia thành viên nhập khẩu sản phẩm đó thì Quốc gia thành viên này có thể, trong phạm vi và trong một thời gian cần thiết để ngăn chặn hoặc giải quyết sự tổn hại đó, có thể tạm thời đình chỉ áp dụng các ưu đãi mà không có sự phân biệt đối xử, miễn sao việc thực hiện các biện pháp này có thể giảm được số lượng tổn thất, thiệt hại mà sản phẩm này mang lại cho quốc gia này. Sau khi áp dụng biện pháp khẩn cấp tình hình tiêu thụ sản phẩm trong ngành kinh tế quốc gia đã kiểm soát được thi có thông báo đến cơ quan quản lý của tổ chức và tiếp tục thực hiện các chương trình phù hợp nhưng vẫn đảm bảo phù hợp với tình hình thực tế của quốc gia thành viên. Việc tạm đình chỉ áp dụng ưu đãi đó phải phù hợp với quy định của GATT.
– Một Quốc gia thành viên nếu thấy cần phải áp dụng hoặc tăng cường các biện pháp hạn chế định lượng hay bất kỳ biện pháp nào khác để hạn chế nhập khẩu nhằm mục đích ngăn chặn nguy cơ hoặc chấm dứt sự giảm sút nghiêm trọng dự trữ tiền tệ của mình, có thể được làm việc đó theo phương cách bảo đảm các giá trị của các ưu đãi đã được thoả thuận, không làm phương hại đến các nghĩa vụ quốc tế hiện có. Tuy nhiên, phải lên chương trình, kế hoạch rõ ràng, không được lợi dụng tình hình để trục lợi cho quốc gia, trái với quy định của hiệp định, gây mất công bằng với các quốc gia khác. Và thông báo đến Hội đồng cấp Bộ trưởng và đồng thời sẽ là một chính sách hiệu quả cho các quốc gia khác tham khảo ý kiến đối với các biện pháp đó.
Căn cứ pháp lý sử dụng trong bài viết:
- Hiệp định về chương trình ưu đãi thuế quan có hiệu lực chung (CEPT)