Được viết vào khoảng thời gian trước cuộc kháng chiến chống quân Nguyên – Mông lần thứ hai (1285): Khi giặc Nguyên Mông sang xâm lược nước ta lần thứ hai. Để hiểu rõ hơn về lòng yêu nước qua tác phẩm này, mời các bạn tham khảo bài viết Sơ đồ tư duy Hịch tướng sĩ dễ đọc, dễ hiểu và dễ nhớ dưới đây.
Mục lục bài viết
1. Sơ đồ tư duy Hịch tướng sĩ dễ đọc, dễ hiểu và dễ nhớ:
* Tác giả
– Trần Quốc Tuấn (1231? -1300) còn được gọi là Hưng Đạo Đại Vương
– Cuộc đời:
+ Là danh tướng kiệt xuất của dân tộc
+ Năm 1285 và 1287, quân Mông Nguyên xâm lược nước ta, lần nào ông cũng được Trần Nhân Tông cử làm Tiết chế thống lĩnh các đạo quân. Cả hai lần đều thắng lợi vẻ vang.
+ Tác phẩm nổi bật: Binh thư yếu lược
* Tác phẩm
– Thể loại: Hịch
– Hoàn cảnh sáng tác
Được viết vào khoảng thời gian trước cuộc kháng chiến chống quân Mông – Nguyên lần thứ hai (1285): Khi giặc Mông – Nguyên sang xâm lược nước ta lần thứ hai, lúc này quân giặc rất mạnh muốn đánh bại chúng phải có sự đồng tình, ủng hộ của toàn quân, toàn dân, vì vậy Trần Quốc Tuấn đã viết bài hịch này để kêu gọi tướng sĩ hết lòng đánh giặc.
– Bố cục
Chia làm 3 phần:
+ Phần 1: Từ đầu đến “lưu tiếng tốt”: Nêu tên những trung thần nghĩa sĩ được sử sách lưu danh.
+ Phần 2: Từ tiếp đến “ta cũng vui lòng”: Tình hình đất nước hiện tại và nỗi lòng của người chủ tướng.
+ Phần 3: Còn lại: Phê phán những biểu hiện sai trái trong hàng ngũ quân sĩ.
– Giá trị nội dung
Bài Hịch phản ánh tinh thần yêu nước nồng nàn của dân tộc trong cuộc kháng chiến chống quân xâm lược, thể hiện lòng căm thù giặc và ý chí quyết thắng.
– Giá trị nghệ thuật
Hịch tướng sĩ là một áng văn chính luận xuất sắc
Lập luận chặt chẽ, lĩ lẽ rõ ràng, giàu hình ảnh, có sức thuyết phục cao
Kết hợp hài hoà giữa lí trí và tình cảm
Lời văn giàu hình ảnh nhạc điệu
* Các luận điểm tư duy tác phẩm
Nêu gương sáng của trung thần nghĩa sĩ trong sử sách
– Các gương trung thần nghĩa sĩ hi sinh vì chủ: Kỉ Tín, Do Vu, Dự Nhượng, Kính Đức, Mông Kha, Cốt Đãi Ngột Lang… Địa vị khác nhau song đều trung thành, không sợ nguy hiểm, bỏ mình vì chủ tướng, vì nước.
⇒ Khích lệ ý chí lập công danh, xả thân vì nước.
⇒ Làm nổi bật tinh thần quên mình vì chủ, vì vua, vì nước.
* Tình hình đất nước hiện tại, nỗi lòng của chủ tướng
Tình hình đất nước hiện tại
– Tội ác và sự ngang ngược của giặc: đi lại nghênh ngang, sỉ mắng triều đình, bắt nạt tể phụ, đòi ngọc lụa, thu bạc vàng… ⇒ Bạo ngược, tham lam, vô đạo.
– Nghệ thuật:
+ Ngôn từ gợi hình, gợi cảm: Nghênh ngang, uốn lưỡi
+ Hình ảnh ẩn dụ: lưỡi cú diều, thân dê chó
+ Giọng văn mỉa mai, châm biếm
⇒ Khắc hoạ sinh động hình ảnh kẻ thù, gợi cảm xúc căm phẫn cho người đọc, bộc lộ sự căm ghét, khinh bỉ
Nỗi lòng chủ tướng
– Được thể hiện rõ nét qua phần điệp với những câu văn biền ngắn gọn đối xứng cân chỉnh: “Ta thường tới bữa quên ăn…ta cũng cam lòng”
– Nghệ thuật:
+ Dùng nhiều dấu phẩy và dấu chấm phẩy
+ Nhiều động từ chỉ trạng thái và hành động mãnh liệt như: quên ăn, vỗ gối, xẻ thịt, lột da, nuốt gan, uống máu…
+ Giọng văn thống thiết, tình cảm
⇒ Tác dụng:
+ Cực tả niềm uất hận dâng lên trong lòng người chủ tướng
+ Khơi gợi sự đồng cảm ở người đọc, người nghe.
* Chủ tướng phê phán biểu hiện sai lầm trong hàng ngũ quân sĩ, bộc lộ nỗi lòng mình và kêu gọi tướng sĩ
Phê phán sai lầm của tướng sĩ
– Phê phán hành động hưởng lạc, thái độ bàng quan trước vận mệnh đất nước.
– Ham thú vui tầm thường: chọi gà, cờ bạc, săn bắn, ruợu ngon…
– Thái độ phê phán dứt khoát ⇒ Phê phán nghiêm khắc thái độ bàng quan, vô trách nhiệm, vong ân bội nghĩa; lối sống hưởng lạc, chỉ lo vun vén hạnh phúc cá nhân.
Nỗi lòng người chủ tướng
– Khuyên:
+ Quân sĩ: phải biết lo xa, nêu cao cảnh giác, tăng cường luyện tập, học tập “Binh thư yếu lược”
+ Kết quả: có thể bêu đầu Hốt Tất Liệt… lưu thơm
⇒ Tốt đẹp: đất nước còn, gia đình còn, bổng lộc có, danh dự được lưu truyền (cả vật chất và tinh thần)
⇒ Giúp tướng sĩ nhận thức rõ đúng- sai, lợi – hại.
⇒ Khích lệ lòng tự trọng, liêm sỉ ở mỗi người khi nhận ra cái sai, thấy được điều đúng.
+ Biết lo xa
+ Tăng cường võ nghệ
⇒ Chống giặc ngoại xâm.
– Chủ tướng khích lệ tinh thần trung quân ái quốc.
– Cùng cảnh ngộ: khích lệ lòng ơn nghĩa, thuỷ chung của người chung hoàn cảnh.
– Thể hiện thái độ:
+ Khuyên răn, bày tỏ thiệt hơn
+ Nghiêm khắc cảnh báo
+ Mỉa mai, chế giễu
Kêu gọi tướng sĩ
– Vạch rõ ranh giới 2 con đường chính- tà, sống – chết.
⇒ Thái độ dứt khoát, cương quyết. Nhằm loại bỏ thái độ do dự trong tướng sĩ.
– Khích lệ lòng yêu nước bất khuất, quyết chiến, quyết thắng kẻ thù xâm lược.
⇒ Trần Quốc Tuấn là vị tướng yêu nước, có trách nhiệm cao đối với vận mệnh của dân tộc, căm thù giặc sâu sắc.
2. Sơ đồ tư duy Hịch tướng sĩ dễ đọc, dễ hiểu và dễ nhớ ấn tượng nhất:
– Luận điểm 1: Nêu gương các trung thần nghĩa sĩ nổi danh nhằm khích lệ tình thần lập công vì nước.
+ Lí lẽ 1: Đời nào cũng có các bậc trung thần nghĩa sĩ bỏ mình vì nước. Những con người này không theo thói nữ nhi thường tình. Dẫn chứng: Công lao của Kỉ Tín, Do Vu, Thân Khoái, Dự Nhượng,…
+ Lí lẽ 2: Những trung thần nghĩa sĩ gần đây. Dẫn chứng: Công trạng của Vương Công Kiên, Xích Tu Tư.
– Luận điểm 2: Sự tàn bạo của quân giặc.
+ Lí lẽ 1: Quân giặc như hổ đói, làm những việc bất nhân, bất nghĩa. Dẫn chứng: những việc làm tham lam, độc ác, coi thường của quân giặc.
+ Lí lẽ 2: Cảm xúc dâng trào của tác giả.
– Luận điểm 3: Phân tích phải trái, làm rõ đúng sai.
+ Lí lẽ 1: Sự đối đãi của Trần Quốc Tuấn với binh lính không thua gì những trung thần nghĩa sĩ đã nói ở trên. Dẫn chứng: Những hành động thể hiện sự đối đãi hết mực của ông.
+ Lí lẽ 2: Lập luận chỉ ra những việc làm sai trái của một bộ phận binh tướng, sự sai trái đó có thể dẫn đến nguy cơ mất nước. Dẫn chứng: ông liệt kê ra những việc làm không đúng đó và dùng cách lập luận nhân – quả để chứng minh.
+ Lí lẽ 3: Lập luận chỉ ra những việc cần làm của bộ phận binh tướng đó, như thế mới giữ được đất nước. Dẫn chứng: (Ở đây hãy chú ý đến sự hô ứng với phần lí lẽ 2)
– Luận điểm 4: Nêu nhiệm vụ cấp bách và khích lệ tinh thần chiến đấu.
+ Lí lẽ: Binh tướng cần phải chuyên tập “Binh thư yếu lược” nếu không sẽ là trái lời, là kẻ nghịch thù. Tác giả khẳng định nếu không biết rửa nhục, trừ hung thì sẽ chắc chắn sẽ đại bại.
3. Sơ đồ tư duy Hịch tướng sĩ dễ đọc, dễ hiểu và dễ nhớ xuất sắc nhất:
– Trần Quốc Tuấn (1231 – 1300) – người đã được vua Trần giao cho thống lĩnh quân đội, đã lãnh đạo cuộc kháng chiến chống quân Mông – Nguyên thắng lợi vẻ vang. Người nổi tiếng là biết trọng kẻ sĩ thu phục nhân tài.
– Trần Quốc Tuấn là một người anh hùng dân tộc, nhà quân sự thiên tài, lòng yêu nước của ông nước thể hiện rõ qua văn bản “Hịch tướng sĩ”, văn bản khích lệ tướng sĩ học tập cuốn “Binh thư yếu lược” do ông biên soạn.
– Luận điểm 1: Khích lệ lòng tự tôn và danh dự cá nhân. Trước sự lâm nguy của đất nước, lòng yêu nước thiết tha của vị chủ soái Trần Quốc Tuấn được thể hiện ở lòng căm thù sục sôi quân cướp nước. Ta hãy nghe ông kể tội ác của giặc: “Ngó thấy sự giặc đi lại nghênh ngang ngoài đường, uốn lưỡi cú diều mà sỉ mắng triều đình, đem thân dê chó mà bắt nạt tể phụ, thác mệnh Hốt Tất Liệt mà đòi ngọc lụa, để thoả lòng tham không cùng, giả hiệu Vân Nam Vương mà thu bạc vàng, vét của kho có hạn, thật khác nào đem thịt mà nuôi hổ đói, sao cho khỏi để tai hoạ về sau!”. Tác giả gọi giặc là “cú diều, dê chó, hổ đói” không chỉ vạch trần sự tham lam, độc ác mà còn vạch rõ dã tâm xâm lược của giặc; thể hiện sự khinh bỉ, căm ghét tột độ. Không chỉ kể tội ác của giặc mà Trần Quốc Tuấn còn bày tỏ nỗi đau xót trước nỗi nhục của quốc thể, nỗi đau đớn xót xa. Đó là biểu hiện của sự sẵn sàng xả thân để rửa nhục cho nước, để bảo vệ nền độc lập của dân tộc, khát vọng nước xả thân cho nước: “Chỉ căm tức chưa xả thịt lột da, nuốt gan, uống máu quân thù. Dẫu cho trăm thân này phơi ngoài nội cỏ, nghìn xác này gói trong da ngựa ta cũng vui lòng”.
– Luận điểm 2: Khích lệ ý trí lập công và tinh thần xả thân vì nghĩa. Qua bài Hịch, Trần Quốc Tuấn không chỉ thể hiện lòng căm thù sục sôi quân cướp nước mà còn thể hiện ý chí quyết chiến, quyết thắng, quyết xả thân cho độc lập dân tộc. Ông vạch ra hai con đường chính – tà cũng là một con đường sống chết để thuyết phục tướng sĩ. Trần Quốc Tuấn biểu lộ một thái độ dứt khoát: hoặc là địch hoặc là ta, không có vị trí chông chênh cho những kẻ bàng quan trước thời cuộc. “Giặc với ta là kẻ thù không đội trời chung, các ngươi cứ điềm nhiên không biết rửa nhục, không lo trừ hung, không dạy quân sĩ, chẳng khác nào quay mũi giáo mà chịu đầu hàng, giơ tay mà không chịu thua giặc. Nếu vậy rồi đây sau khi giặc đã dẹp yên, muôn đời để thẹn, há còn mặt mũi nào đứng trong trời đất nữa?”, đó là lời động viên tới mức cao nhất ý chí và quyết tâm chiến đấu của mọi người
– Luận điểm 3: Khích lệ lòng trung quân ái quốc. Tình yêu thương chân thành, tha thiết dành cho tướng sĩ của Trần Quốc Tuấn đều được xuất phát từ lòng nhân hậu từ lòng yêu nước. Với quân sĩ dưới quyền, Trần Quốc Tuấn luôn đối xử như với con mình, với những người quen: “Các ngươi cùng ta coi giữ binh quyển đã lâu ngày, không có mặc thì ta cho áo, không có ăn thì ta cho cơm; quan nhỏ thì ta thăng chức, lương ít thì ta cấp bổng; đi thuỷ thì ta cho thuyền, đi bộ thì ta cho ngựa; lúc trận mạc xông pha thì cùng nhau sống chết, lúc ở nhà nhàn hạ thì cùng nhau vui cười”. Đó là mối ân tình giữa chủ và tướng nhằm khích lệ ý thức trách nhiệm và nghĩa vụ của mỗi người đối với lẽ vui tôi cũng như tình cốt nhục. Chính tình yêu thương tướng sĩ chân thành tha thiết mà Trần Quốc Tuấn đã phê phán những biểu hiện sai, đồng thời chỉ ra cho tướng sĩ những hành động đúng nên theo, nên làm. Những hành động này đều xuất phát từ ý chí quyết chiến, quyết thắng kẻ thù xâm lược.
– Luận điểm 4: Khích lệ lòng căm thù giặc và nỗi nhục mất nước. Đó là sự băn khoăn trước tình trạng tướng sĩ không biết lo lắng cho đất nước: không thấy lo, thấy thẹn khi nhà vua và đất nước bị kẻ thù làm nhục; chỉ biết vui thú tiêu khiển, lo làm giàu, ham săn bắn, thích rượu ngon, mê tiếng hát,… Nguy cơ thất bại rất lớn khi có giặc Mông Thái tràn sang: “cựa gà trống không thể đâm thùng áo giáp của giặc, mẹo cờ bạc không thể dùng làm mưu lược nhà binh; dẫu rằng ruộng lắm, vườn nhiều, tấm thân qúy nghìn vàng khôn chuộc; vả lại vợ bìu con díu; việc quân cơ trăm sự ích chi; tiền của tuy nhiều không mua được đầu giặc, chó săn tuy khoẻ không đuổi được quân thù, chén rượu ngon không thể làm cho giặc say chết, tiếng hát hay không thể làm cho giặc điếc tai. Lúc bây giờ, ta cùng các ngươi sẽ bị bắt, đau xót biết chừng nào!”. Chính lòng yêu nước mà Trần Quốc Tuấn đã chỉ ra cho tướng sĩ những hành động nên làm: “Nay ta bảo thật các ngươi: nên nhớ câu “đặt mồi lửa vào giữa đông củi là nguy cơ, nên lấy điều “kiềng canh nóng mà thổi rau nguội”, “làm run sợ, huấn luyện quân sĩ, tập dượt cung tên”.
THAM KHẢO THÊM: