Chị em Thuý Kiều của Nguyễn Du là một trong những tác phẩm quan trọng trong chương trình văn học lớp 9. Đây cũng là tác phẩm văn học hay xuất hiện trong các đề thi. Để giúp các em có một kì thi thật tốt, hôm nay hãy cùng chúng tôi tìm hiểu những mẫu phân tích Chị em Thúy Kiều (Nguyễn Du) chọn lọc hay nhất.
Mục lục bài viết
1. Dàn ý phân tích Chị em Thuý Kiều (Nguyễn Du) chọn lọc hay nhất:
1.1. Mở bài:
Giới thiệu tác giả Nguyễn Du và đoạn trích
1.2. Thân bài:
Khái quát vấn đề chung
– Giới thiệu, miêu tả về các nhân vật, qua đó khắc họa tính cách cùng với số phận của con người là tài năng của Nguyễn Du, đây là một thành công lớn của ông.
– Về việc miêu tả nhân vật chính diện của truyện: tác giả có sử dụng bút pháp lý tưởng hóa để miêu tả nhân vật. Đoạn trích Chị em Thúy Kiều là sự thể hiện vẻ đẹp toàn bích chân dung tuyệt mỹ tới chuẩn mực của người Á Đông thể hiện ở nét đẹp của hai nàng Thuý Vân, Thuý Kiều.
Phân tích vẻ đẹp của nhân vật Thúy Vân (4 câu)
– Ban đầu, Nguyễn Du gợi hình gợi tả vẻ đẹp của chị em Thúy Kiều từ những hình ảnh hiện tượng thiên nhiên như: mai, tuyết. Với việc sử dụng bút pháp ước lệ đã gây ấn tượng về vẻ đẹp với những từ như: “cốt cách như mai”, “thanh tao”, “cốt cách trong trắng”, “tinh khôi như tuyết”.
– Bốn câu thơ miêu tả vẻ đẹp của Thúy Vân với những tính từ như: thanh cao, duyên dáng, trong trắng.
- Câu thơ “Vân xem trang trọng khác vời” đã khái quát được vẻ đẹp thanh cao sang trọng, quý phái của nàng.
- Vẻ đẹp của Thuý Vân sánh ngang với những thứ đẹp nhất từ cảnh vật tự nhiên như: hoa, mây trắng, tuyết, ngọc.
- Chân dung của nàng Thúy Vân không chỉ đẹp từ khuôn mặt, hay nụ cười, hoặc mái tóc, làn da, cùng với phong thái điềm đạm (đây đều là các chi tiết so sánh và ẩn dụ thú vị xuất hiện trong thơ).
→ Vẻ đẹp của Thuý Vân vượt xa và hơn mọi chuẩn mực của tự nhiên thiên nhiên, ai đó cùng phải khiến tự nhiên cúi đầu chịu ‘thua”, “nhường” lại và ắt hẳn cuộc đời của nàng sẽ được an ổn, nhẹ nhàng, bình yên và không sóng gió.
Phân tích vẻ đẹp của nàng Thúy Kiều (12 câu tiếp theo)
– Tác giả miêu tả vẻ đẹp của Thúy Vân trước để làm nổi bật vẻ đẹp Thúy Kiều:
- Kiều càng sắc sảo, tuyệt đẹp, mặn mà: Vẻ đẹp của Thúy Kiều mặn mà cả về tâm hồn, sắc sảo cả về trí tuệ.
- Tác giả đã sử dụng lối nghệ thuật ước lệ tượng trưng với việc sử dụng từ ngữ: “thu thủy, xuân sơn để đặc tả riêng đôi mắt trong sáng, long lanh của Kiều.”
- Thúy Kiều được khắc hoạ, gợi lên là mỹ nữ tuyệt thế giai nhân với nét vẻ đẹp khiến người ngoài cũng phải tự nhiên phải ganh ghét, chịu thua đố kị: “hoa ghen, liễu hờn.”
- Cái tài của nàng Thúy Kiều đã đạt đến mức lí tưởng theo quan niệm của thẩm mĩ vẻ đẹp phong kiến: “cầm, kì, thi, họa.”
- Nhấn mạnh tài đàn của nàng, tác giả đặc biệt miêu tả cung đàn bạc mệnh của nàng (“Một thiên bạc mệnh lại càng não nhân”) là tiếng lòng đại diện của trái tim đa sầu, đa cảm.
→ Chân dung Thúy Kiều được khắc khoạ, khiến tạo hóa ganh ghét, đố kị, nàng có tài hoa thiên bẩm, tâm hồn đa sầu đa cảm dự đoán được số phận trắc trở, gian khổ nghiệt ngã đầy sóng gió bởi “Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau”.
– Nguyễn Du đã miêu tả Thúy Vân trước rồi mới đến miêu tả Thúy Kiều, đây là thủ pháp đòn bẩy sẽ làm nổi bật hơn vẻ đẹp của Thúy Kiều.
– Tác giả đã sử dụng tài tình, khéo léo các tính từ để miêu tả vẻ đẹp Vân, Kiều (một vẻ đẹp mang số phận): “mặn mà, trang trọng, sắc sảo…”
– Các biện pháp nghệ thuật so sánh, ẩn dụ, đối xứng, liệt kê, tăng tiến, nhân hóa, điển tích điển cố… được sử dụng linh hoạt trong đoạn trích.
→ Bút pháp ước lệ tượng trưng cũng được sử dụng tinh tế, là cách thể hiện con người quen thuộc thông qua biện pháp trong thơ ca trung đại (miêu tả thông qua những công thức, những chuẩn mực cụ thể có sẵn được quy ước kỹ trong văn học nghệ thuật).
1.3. Kết bài:
Đoạn trích khắc họa rõ nét vẻ đẹp và chân dung của chị em Thúy Kiều thông qua nhờ bút pháp ước lệ tượng trưng, cùng với thủ pháp đòn bẩy và các biện pháp tu từ.
Nguyễn Du đã thể hiện cảm hứng nhân văn rất thành công thông qua việc đề cao con người, đồng thời ca ngợi vẻ đẹp tài năng, toàn diện của con người và dự cảm được trước về kiếp người tài hoa bạc mệnh.
2. Phân tích Chị em Thúy Kiều (Nguyễn Du) chọn lọc hay nhất, ấn tượng nhất:
“Với Truyện Kiều của Nguyễn Du, có thể cho thấy rằng ngôn ngữ Việt Nam đã có sự chuyển mình qua một cuộc thay đổi về chất và đã tỏ rõ khả năng biểu hiện đầy đủ và sâu sắc”. Thật như vậy, “Truyện Kiều” là một trong những tác phẩm tiêu biểu của vị đại thi hào dân tộc, ông là một “Danh nhân văn hóa lớn của thế giới”. Ở trong tác phẩm này, người đọc vừa cảm thấy say mê trước vẻ đẹp toàn vẹn, hoàn mỹ của người thiếu nữ vừa đau khổ, đớn đau, cảm thấy sự thương xót cho một phận đời bạc bẽo. Đoạn trích “Chị em Thúy Kiều” nằm trong phần đầu của tác phẩm. Tác phẩm là sự khắc họa rõ nét về cuộc sống, con người, vẻ đẹp và một thông điệp nhằm dự báo tương lai của số mệnh hai chị em Thúy Vân, Thúy Kiều.
Ở những câu thơ, vần thơ đầu tiên, vị thi hào Nguyễn Du đã có sự giới thiệu khái quát qua đối với độc giả về hai người con gái của gia đình viên ngoại họ Vương:
“Đầu lòng hai ả tố nga,
Thúy Kiều là chị em là Thúy Vân.
Mai cốt cách tuyết tinh thần,
Mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười.”
Thoạt đầu khi mới nhìn qua, bốn câu thơ được cất lên, người đọc đã hình dung khái quát ra hình ảnh hai thiếu nữ xinh đẹp “hai ả tố nga”, bên cạnh vẻ đẹp của người em tên Thúy Vân thì còn là vẻ đẹp của người chị là Thúy Kiều. Mỗi người mang một nét đặc trưng riêng, không có sự giống nhau hoàn toàn nhưng vẫn tựa như hai loài hoa khác nhau, tuy nhiên hai viên ngọc này vẫn đều đẹp tuyệt mỹ, hoàn hảo, tỏa sắc, ấn tượng, tỏa hương vẻ nét “mười phân vẹn mười”. Đây là một vẻ đẹp tròn đầy, căng bóng, cả lẫn vẻ bề ngoài lẫn trong nhân cách, lẫn tài năng “tài sắc vẹn toàn”. Cốt cách của họ cũng được nhà văn Nguyễn Du ví như là “mai” như là “tuyết”, trong sáng vô cùng, thanh thuần, đơn giản, mộc mạc.
Vẻ đẹp của người em gái Thúy Vân được khắc hoạ, hiện lên rõ nét, đậm đà, đong đầy nhưng ngắn gọn, xúc tích, giàu sức gợi hình trong bốn câu thơ tiếp theo:
“Vân xem trang trọng khác vời
Khuôn trăng đầy đặn nét ngài nở nang
Hoa cười, ngọc thốt đoan trang
Mây thua nước tóc tuyết nhường màu da.”
Nàng Thuý Vân có một vẻ đẹp riêng mà không phải ai cũng có thể có được, vậy nên tác giả mới sử dụng từ ngữ “khác vời”. Đó là vẻ đẹp đong đầy của sự sang trọng, quý phái, nhưng vẫn rất đoan trang, dịu dàng. Và nàng xứng đáng được cho là một thiếu nữ đài các, một tượng đài của vẻ đẹp đại diện cho những người phụ nữ. Nét đẹp của nàng Thuý Vân được khắc họa khéo léo nhưng vẫn đủ tinh tế, đủ ấn tượng. Vậy nên người đọc có thể thấy được các hình ảnh ước lệ, tượng trưng ấn tượng, đặc sắc: khuôn mặt thì tròn trịa, khuôn mặt phúc hậu tựa giống như mặt trăng, đôi lông mày thì rậm rạp nhưng sắc nét vô cùng.
Những hình ảnh ước lệ, tượng trưng của tác giả như càng làm tăng thêm vẻ đẹp thanh lịch của nàng. Tính cách thì nhã nhặn, đoan trang, rất ôn nhu, cười tươi và tựa như những hoa nở, lời nói nói ra đều là “lời vàng, ý ngọc”. Vẻ đẹp đó của nàng đã đạt tới mức độ khiến cho những sự vật, hiện tượng xung quanh phải trở nên e thẹn, nhún nhường và phải kính nể “mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da”. Những hình ảnh nhân hóa như “thua, nhường” đã dự báo được cho một cuộc sống sau này sẽ êm đềm, thuận lợi, không sóng gió của Thúy Vân.
Nhà thơ đã miêu tả về nàng Thúy Vân như là làm nền, là một chiếc đòn bẩy để làm tăng thêm, làm tô thêm nét đẹp của Thúy Kiều. Khi miêu tả về Thuý Vân thì tác giả chỉ gói gọn trong bốn câu thơ nhưng khi nhắc về Thuý Kiều, thì thi nhân đã đặc biệt dành hẳn mười hai câu thơ. Như vậy đã đủ để nhận thấy rằng tác giả đã có cảm tình ấn tượng thế nào đối với một thân phận hồng nhan, bạc mệnh này của nàng Vân:
“Kiều càng sắc sảo mặn mà
So bề tài sắc lại là phần hơn
Làn thu thủy, nét xuân sơn
Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh
Một hai nghiêng nước nghiêng thành
Sắc đành đòi một tài đành họa hai.”
Vân đã đẹp đến mức sự vật, thiên nhiên xung quanh cũng phải kiêng dè, dè chừng; nhưng đến những câu thơ của nàng Kiều thì ta cảm nhận được lại đẹp hơn nhiều lần hơn vậy: “càng sắc sảo mặn mà”, “phần hơn”. Từ ngữ “Sắc sảo” chính là minh chứng cho nét đẹp trưởng thành, thông trí tuệ, khôn khéo. Để có thể khắc họa được một cách chân thực, rõ nét đặc biệt lại với nhất sắc đẹp của Thúy Kiều, thì nhà văn Nguyễn Du đã phải tìm cách khai thác triệt để các thủ pháp nghệ thuật ước lệ, tượng trưng, các hình ảnh tượng trưng, và đặc biệt xoáy sâu tập trung vào đôi mắt với nét “làn thu thủy”. Đôi mắt nàng trở nên vô cùng trong trẻo, sâu sắc, bình lặng và ẩn chứa khá nhiều tâm sự.
Từ đôi mắt ấy, ánh mắt ấy, ta cảm nhận được một tâm hồn nhiều lo nghĩ, đa sầu, đa cảm, nhưng lại giàu tình yêu thương của nàng. Bên cạnh đôi mắt như: “làn nước mùa thu”, cặp lông mày được ví như là “nét xuân sơn”. Được hiểu như dáng núi vào mùa xuân, giúp chúng ta liên tưởng, hình dung đến đôi mày liễu, sắc sảo, gọn mảnh, đường cong lẹm, mang đến vẻ đẹp xuất sắc, hài hoà cho cả khuôn mặt. Đó cũng là một nét đẹp hoàn mỹ, tuyệt đẹp hiếm có, khó tìm ở trần gian, bộc lộ tính cách nhu thuận, ôn hoà, dịu dàng của người phụ nữ.
Nhưng tại sao tác giả không trực tiếp ví đôi lông mày của nàng ấy như là lá liễu mà phải ví như ngọn núi vào mùa xuân. Bởi rằng cuộc đời nàng cũng truân chuyên, gian khổ, khúc khủy, lên xuống gập ghềnh, gian chuân tựa như núi. Không chỉ như vậy, nét đẹp vẻ đẹp thuần khiết, hài hoà, tự nhiên của nàng còn có thể khiến bất kì ai cũng phải “nghiêng thành, nghiêng nước”, giao tranh, đố kị, kịch liệt mà đến cả hoa, cả liễu cũng phải hờn ghen tỵ. Phải chăng số trời đã báo trước, định trước về cuộc sống mai sau của nàng Thúy Kiều sẽ không được êm đềm, hạnh phúc, an nhiên mà thậm chí ngược lại luôn phải chịu nhiều điều bất hạnh, gian khổ, bi thương.
Phân tích bài thơ “Chị em Thúy Kiều” ta thấy được về nhan sắc, xét về dáng vẻ, thì có lẽ là Thúy Kiều đã hơn nhiều so với Thúy Vân một bậc còn về tài năng lại càng giỏi hơn mấy phần:
“Thông minh vốn sẵn tính trời
Pha nghề thi họa đủ mùi ca ngâm
Cung thương làu bậc ngũ âm
Nghề riêng ăn đứt hồ cầm một trương
Khúc nhà tay lựa nên chương
Một thiên bạc mệnh lại càng não nhân.”
Tư tưởng Nho giáo thời xưa cho rằng người phụ nữ thực sự không cần quá xuất sắc về mọi mặt thì người đó đã có thể hạnh phúc vẹn tròn, đong đầy; tiêu biểu cho hình mẫu của nàng Thúy Vân; và còn ngược lại người phụ nữ mà vừa có nhan sắc, lại còn có tài giỏi thì chắc hẳn sẽ bạc mệnh.
Đây là sự ảnh hưởng của tư tưởng phong kiến thời bấy giờ đến thơ ca văn học của người thi sĩ, thậm chí bao gồm cả Nguyễn Du. Nhà thơ Nguyễn Du đã cho rằng: “Sắc đành đòi một, tài đành họa hai”. Thúy Kiều vốn được biết đến là thần đồng từ nhỏ, trí thông minh thì được do trời phú mang đến. Thêm vào đó là, những món nghề cầm, kỳ, thi, họa thì nàng đều thông thạo, thuần thục, giỏi giang.
Mà đặc biệt nhất là tài năng âm nhạc nghệ thuật của nàng: “Cung thương làu bậc ngũ âm/Nghề riêng ăn đứt hồ cầm một chương”. Nàng ấy có thể tự mình sáng tác nhạc, biến chuyển nhạc, phổ nhạc, viết lên tiếng lòng của kẻ đa sầu đa cảm cũng là cuộc đời lắm bạc bẽo, đau thương gian khổ của nàng “một thiên bạc mệnh lại càng não nhân”, thật khiến cho người ta phải đau lòng theo một thân phận bạc mệnh. Cũng bởi vì “chữ tài đi liền với chữ tai một vần.”
Khép lại đoạn trích “Chị em Thuý Kiều”, Nguyễn Du đã mở ra một không gian sống khá giả, nhẹ nhàng, êm đềm của hai người thiếu nữ:
“Phong lưu rất mực hồng quần ,
Xuân xanh xấp xỉ tới tuần cập kê,
Êm đềm trướng rủ màn che.
Tường đông ong bướm đi về mặc ai.”
Xinh đẹp, tài giỏi, tài năng, kiến thức uyên bác – người phụ nữ ấy đã đến tuổi lấy chồng,cô thiếu nữ ấy cũng được nhiều người theo đuổi “ong bướm đi về”, Kiều và Vân hai chị em họ sống trong khuôn phép, giáo điều, gia giáo “trướng rủ màn che”, họ cứ chuyên tâm sống một đời êm đềm, nhẹ nhàng, hạnh phúc.
Phân tích đoạn trích “Chị em Thúy Kiều” bước đầu cho người đọc thấy được tài năng, bút lực của Nguyễn Du. Ông đã thành công khắc họa, xây dựng nên chân dung, hình tượng hai nhân vật một cách vô cùng sống động, ấn tượng, khéo léo và đặc biệt vẫn sắc nét, đặc sắc vô cùng. Thông qua thể thơ lục bát truyền thống, với kết cấu khéo léo, tinh tế. Bên cạnh đó, với việc sử dụng bút pháp ước lệ tượng trưng nhuẫn nhuyễn, cùng với hình ảnh so sánh nhân hóa đặc sắc, chân thật được lồng ghép khéo léo, nhẹ nhàng đã đưa đến cho người đọc những cảm xúc khó tả; người đọc vừa xuýt xoa trước vẻ đẹp của nàng với việc hội tụ đầy đủ những gì tuyệt mỹ nhất: sắc, tài, tình, mệnh – những thứ vừa khiến người ta nhói chạnh lòng trước sự báo trước số mệnh của nàng Thúy Kiều.
Chẳng ai có thể biết được Nguyễn Du đã sở hữu bao nhiêu tài năng, rồi dành bao nhiêu tâm huyết công sức để vẽ nên bức tranh tạc tượng có một không hai tuyệt mỹ như ở “Chị em Thúy Kiều”. Bức tranh tinh tế, đặc sắc, lôi cuốn, sống động, chân thật, dịu nhẹ và đầy gần gũi, mà điều đó khi nhìn ngắm có thể khiến người ta có thể cảm nhận được từng hơi thở, từng bước vẽ hoàn hảo của thi sĩ, những giọt nước mắt thương cảm, thấm đậm nỗi lòng về số phận đầy gian nan phía trước và cũng chẳng mấy hoan hỉ của nàng Thúy Kiều. Ngay tại thời điểm bây giờ và thậm chí đến mãi cả về sau, thì Truyện Kiều luôn là một áng văn chương bất hủ trong làng văn học nghệ thuật của dân tộc ta.
3. Tổng kết về tác phẩm Chị em Thúy Kiều (Nguyễn Du)
Tác phẩm kể về cuộc đời của Thúy Kiều, một cô gái trẻ đẹp và thông minh, đánh đổi tất cả để giúp đỡ gia đình nhưng cuối cùng lại bị đẩy vào hoàn cảnh đau đớn và khốn khổ. Trong hành trình đau khổ của mình, Thúy Kiều gặp gỡ nhiều người đàn ông khác nhau, nhưng cuối cùng cô chỉ có thể trở về với Kim Trọng, người mà cô yêu thương suốt cả cuộc đời.
“Chị em Thúy Kiều” không chỉ là một câu chuyện tình buồn mà còn là một tác phẩm nghệ thuật có giá trị về mặt văn học, triết học và lịch sử. Tác phẩm đề cao tình yêu thương, lòng nhân ái, lòng trung thành và hy vọng trong cuộc sống, cũng như thể hiện sự tình cảm sâu sắc của tác giả đối với đất nước và con người Việt Nam.
Ngoài ra, “Chị em Thúy Kiều” còn có giá trị văn hóa, nó đã trở thành một phần không thể thiếu trong văn học Việt Nam và được đọc và yêu thích bởi nhiều thế hệ độc giả. Tác phẩm cũng đã được dịch sang nhiều ngôn ngữ và được phát hành trên khắp thế giới.