Án treo được xem là biện pháp miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện, được cơ quan có thẩm quyền áp dụng đối với người phạm tội phạt tù không vượt quá 03 năm, nhân thân tốt và nhận thấy không cần bắt buộc họ phải chấp hành hình phạt tù. Vậy theo quy định của pháp luật thì đang hưởng án treo có được đăng ký kết hôn hay không?
Mục lục bài viết
1. Đang hưởng án treo có được đăng ký kết hôn không?
Trước hết, án treo được xem là biện pháp miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện phải được cơ quan nhà nước có thẩm quyền đó là Tòa án áp dụng đối với cá nhân phạm tội bị phạt tù không vượt quá thời gian 03 năm, căn cứ vào nhân thân của người phạm tội và căn cứ vào những tình tiết giảm nhẹ mà người phạm tội có được, nhận thấy không cần bắt buộc người phạm tội phải chấp hành hình phạt tù.
Căn cứ theo quy định tại Điều 2 của Nghị quyết số 02/2018/NQ-HĐTP, thì cá nhân bị xử phạt tù hoàn toàn có thể được xem xét để hưởng án treo khi cá nhân đó đáp ứng được đầy đủ các điều kiện sau đây:
- Cá nhân bị xử phạt tù không vượt quá thời gian 03 năm;
- Cá nhân có nhân thân tốt;
- Cá nhân có từ 02 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự trở lên, đồng thời trong đó có ít nhất 01 tình tiết giảm nhẹ thuộc khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 và không có các tình tiết tăng nặng được quy định tại khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự năm 2015;
- Có nơi cư trú rõ ràng hoặc có nơi làm việc ổn định để cơ quan, tổ chức, đơn vị có thẩm quyền dễ dàng giám sát, giáo dục trong quá trình cho hưởng án treo;
- Nhận thấy không cần thiết phải chấp hành án phạt tù nếu người phạm tội có khả năng tự cải tạo tại địa phương, đồng thời việc cho cá nhân hưởng án treo không gây nguy hiểm cho xã hội, không ảnh hưởng xấu đến an ninh trật tự an toàn xã hội của địa phương.
Bên cạnh đó, kết hôn là khái niệm để chỉ việc nam, nữ xác lập quan hệ vợ chồng với nhau phù hợp với quy định của pháp luật về hôn nhân gia đình (trong đó có quy định về điều kiện kết hôn và đăng ký kết hôn).
Căn cứ theo quy định tại Điều 8 Luật Hôn nhân gia đình năm 2014 có quy định về điều kiện kết hôn như sau:
(1) Nam, nữ kết hôn với nhau cần phải tuân thủ theo các điều kiện sau đây:
- Nam đang ứng độ tuổi từ đủ 20 tuổi trở lên và nữ từ đủ 18 tuổi trở lên;
- Việc kết hôn giữa nam và nữ do các bên tự nguyện quyết định, không bị lừa dối hoặc ép buộc dưới bất kỳ hình thức nào;
- Các bên không bị mất năng lực hành vi dân sự;
- Việc kết hôn không thuộc một trong những trường hợp cấm kết hôn căn cứ theo quy định tại Điều 5 Luật Hôn nhân gia đình năm 2014.
(2) Nhà nước Việt Nam hiện nay không thừa nhận hôn nhân giữa những người đồng giới.
Đối chiếu với quy định tại khoản 2 Điều 5 Luật Hôn nhân gia đình năm 2014 có quy định về những trường hợp cấm kết hôn. Bao gồm những trường hợp sau:
- Kết hôn giả tạo hoặc ly hôn giả tạo trái quy định của pháp luật;
- Tảo hôn, cưỡng ép kết hôn trái quy định pháp luật, lừa dối kết hôn hoặc có hành vi cản trở kết hôn tự nguyện, tiến bộ;
- Cá nhân là người đang có vợ hoặc đang có chồng tuy nhiên kết hôn, chung sống như vợ chồng với người khác; hoặc cá nhân chưa có vợ, chưa có chồng tuy nhiên thực hiện thủ tục kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với những người đã có vợ hoặc đã có chồng;
- Kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với những người có cùng dòng máu trực hệ; kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người có họ trong phạm vi ba đời, giữa cha mẹ nuôi với con nuôi; giữa những người đã từng là cha mẹ nuôi với con nuôi; giữa cha chồng với con dâu; giữa mẹ vợ với con rể; giữa mẹ kế với con riêng của chồng hoặc giữa cha dượng với con riêng của vợ;
- Có hành vi yêu sách của cải trong quá trình đăng ký kết hôn; có hành vi cố ép ly hôn, lừa dối ly hôn hoặc cản trở ly hôn theo nguyện vọng của các bên;
- Có hành vi bạo lực gia đình trái quy định pháp luật;
- Thực hiện hoạt động sinh con bằng kĩ thuật hỗ trợ sinh sản xuất phát vì mục đích thương mại, mang thai hộ vì mục đích thương mại trái với quy định của pháp luật về hôn nhân gia đình, có hành vi lựa chọn giới tính thai nhi hoặc sinh sản vô tính;
- Lợi dụng việc thực hiện quyền về hôn nhân gia đình để mua bán người, bóc lột sức lao động, xâm hại tình dục hoặc thực hiện các hành vi khác nhằm mục đích trục lợi cá nhân.
Theo quy định tại Điều 65 Bộ luật Hình sự năm 2015 thì án treo không phải là một hình phạt, mà là biện pháp miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện. Án treo được Tòa án áp dụng đối với người bị kết án tù không quá 03 năm, khi xét thấy nhân thân tốt, có nhiều tình tiết giảm nhẹ, và không cần thiết phải cách ly khỏi xã hội.
Người được hưởng án treo về bản chất vẫn là người bị kết án phạt tù có thời hạn nhưng được tạm thời miễn chấp hành hình phạt để thử thách trong một thời gian nhất định. Trong giai đoạn này, họ không bị giam giữ mà phải chịu sự giám sát, giáo dục của cơ quan, tổ chức nơi làm việc hoặc chính quyền địa phương nơi cư trú.
Thời gian thử thách do Tòa án ấn định, từ 01 năm đến 05 năm, là khoảng thời gian để người được hưởng án treo thể hiện sự hối cải, tuân thủ pháp luật và tự cải tạo bản thân trong cộng đồng.
Như vậy, tổng hợp các điều luật nêu trên thì việc chấp hành án treo không thuộc một trong những trường hợp cấm kết hôn theo quy định của Luật Hôn nhân gia đình. Vì vậy một người đang được hưởng án treo nếu như đáp ứng đầy đủ điều kiện kết hôn theo quy định tại Điều 8 Luật hôn nhân gia đình năm 2014 thì vẫn ĐƯỢC đăng ký kết hôn như trường hợp bình thường khác.
2. Thủ tục đăng ký kết hôn đối với người đang hưởng án treo:
2.1. Hồ sơ đăng ký kết hôn cần chuẩn bị:
Theo quy định tại Điều 18 Luật Hộ tịch năm 2014 và Điều 10 Nghị định số 123/2015/NĐ-CP, người đang hưởng án treo khi thực hiện đăng ký kết hôn cần chuẩn bị hồ sơ tương tự như các công dân bình thường, bao gồm:
- Tờ khai đăng ký kết hôn (theo mẫu quy định và nộp tại Ủy ban nhân dân cấp xã nơi cư trú của một trong hai bên nam, nữ);
- Giấy xác nhận tình trạng hôn nhân của cả hai bên (do Ủy ban nhân dân cấp xã nơi cư trú cấp, xác nhận hiện tại không có vợ hoặc chồng);
- Chứng minh nhân dân/Căn cước công dân hoặc hộ chiếu của hai bên (bản chính để đối chiếu);
- Giấy tờ chứng minh nơi cư trú hợp pháp;
- Trường hợp một trong hai bên là người nước ngoài thì cần bổ sung giấy tờ chứng minh tình trạng hôn nhân hợp pháp và hộ chiếu hợp lệ theo quy định tại Điều 30 Nghị định 123/2015/NĐ-CP.
Lưu ý: Nếu người đang hưởng án treo có giấy xác nhận cư trú hoặc cam kết chấp hành án treo tại địa phương thì nên kèm theo bản sao văn bản này để Ủy ban nhân dân xã nắm rõ tình trạng pháp lý và thuận lợi trong quá trình xác minh thông tin cư trú.
2.2. Cơ quan có thẩm quyền tiếp nhận và giải quyết:
Theo khoản 1 Điều 17 Luật Hộ tịch 2014, Ủy ban nhân dân cấp xã nơi cư trú của một trong hai bên nam, nữ là cơ quan có thẩm quyền đăng ký kết hôn giữa công dân Việt Nam với nhau.
Nếu người đang hưởng án treo cư trú tại địa phương, việc đăng ký kết hôn thực hiện bình thường như các công dân khác.
Trường hợp người này chuyển nơi cư trú tạm thời hoặc đang bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú, thì nên liên hệ trước với cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện để được xác nhận, bảo đảm việc đi lại và thực hiện thủ tục không vi phạm nghĩa vụ trong thời gian thử thách.
2.3. Quy trình thực hiện đăng ký kết hôn:
Căn cứ Điều 18 Luật Hộ tịch 2014 và Điều 32 Nghị định 123/2015/NĐ-CP, quy trình đăng ký kết hôn đối với người đang hưởng án treo được thực hiện qua 3 bước sau:
Bước 1: Chuẩn bị và nộp hồ sơ.
Hai bên nam, nữ nộp đầy đủ hồ sơ đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân cấp xã nơi cư trú. Công chức tư pháp hộ tịch kiểm tra tính hợp lệ của hồ sơ, đối chiếu thông tin cư trú và tình trạng hôn nhân của các bên.
Bước 2: Xem xét, xác minh thông tin (nếu cần).
Trong trường hợp người đang hưởng án treo, Ủy ban nhân dân cấp xã có thể trao đổi thông tin với Công an cấp xã hoặc cơ quan thi hành án hình sự để xác nhận người đó có đang chấp hành đúng nghĩa vụ thử thách hay không. Việc này không nhằm hạn chế quyền kết hôn mà chỉ để đảm bảo quản lý cư trú, thi hành án theo đúng quy định pháp luật.
Bước 3: Ký kết và cấp Giấy chứng nhận kết hôn.
Nếu hồ sơ hợp lệ và không thuộc các trường hợp cấm kết hôn quy định tại Điều 5 Luật Hôn nhân và Gia đình 2014, công chức hộ tịch ghi vào sổ, hai bên ký tên và Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã ký cấp Giấy chứng nhận kết hôn.
3. Vì sao pháp luật không cấm người đang hưởng án treo được đăng ký kết hôn?
3.1. Án treo không làm mất quyền nhân thân và quyền công dân của người phạm tội:
Theo Điều 65 Bộ luật Hình sự năm 2015, án treo không phải là một hình phạt độc lập mà chỉ là biện pháp miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện. Người được hưởng án treo vẫn bị coi là đã bị kết án nhưng không bị cách ly khỏi xã hội, họ được sống, làm việc và sinh hoạt bình thường trong cộng đồng dưới sự giám sát, giáo dục của chính quyền địa phương hoặc cơ quan, tổ chức nơi làm việc.
Chính vì vậy, án treo không tước bỏ các quyền công dân, trong đó bao gồm quyền nhân thân cơ bản như quyền kết hôn, quyền lao động, quyền học tập và quyền tự do cư trú trong phạm vi pháp luật cho phép. Quyền kết hôn là quyền hiến định, được ghi nhận tại Điều 36 Hiến pháp năm 2013, bảo đảm mọi công dân đều có quyền kết hôn tự nguyện, bình đẳng. Do đó, người đang hưởng án treo vẫn có đầy đủ năng lực pháp lý để thực hiện quyền kết hôn của mình.
3.2. Pháp luật chỉ cấm kết hôn trong những trường hợp cụ thể, không bao gồm người đang hưởng án treo:
Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 quy định rõ ràng về các điều kiện kết hôn tại Điều 8 và các trường hợp bị cấm kết hôn tại Điều 5. Theo đó, pháp luật chỉ cấm kết hôn khi một trong hai bên chưa đủ tuổi kết hôn, khi một trong hai người đang có vợ hoặc chồng, kết hôn giữa những người có cùng dòng máu trực hệ, giữa cha mẹ nuôi với con nuôi hoặc trong các trường hợp kết hôn giả tạo, cưỡng ép, lừa dối.
Trong toàn bộ các quy định này, không có bất kỳ điều khoản nào cấm người đang chấp hành án treo được đăng ký kết hôn. Điều đó có nghĩa là pháp luật không coi tình trạng án treo là tình tiết làm mất hoặc hạn chế quyền kết hôn và nếu người đang hưởng án treo đáp ứng đầy đủ các điều kiện thông thường – về độ tuổi, tình trạng hôn nhân, sự tự nguyện và không thuộc các trường hợp cấm thì việc đăng ký kết hôn vẫn được chấp nhận hợp pháp.
3.3. Án treo chỉ đặt ra nghĩa vụ giám sát, không ảnh hưởng đến quyền tự do hôn nhân:
Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo phải thực hiện một số nghĩa vụ nhất định như chấp hành nghiêm pháp luật, chịu sự giám sát của chính quyền hoặc cơ quan được giao quản lý, báo cáo định kỳ về việc chấp hành và không được tự ý thay đổi nơi cư trú nếu chưa được cho phép.
Tuy nhiên, những nghĩa vụ này chỉ nhằm đảm bảo việc giám sát và giáo dục người phạm tội trong cộng đồng, không phải là biện pháp nhằm tước bỏ hay hạn chế quyền nhân thân. Người đang hưởng án treo vẫn có thể kết hôn, sinh con, lao động và tham gia các hoạt động xã hội bình thường, miễn là họ tuân thủ đúng quy định về nghĩa vụ cư trú và thông báo.
Khi thực hiện việc kết hôn, họ chỉ cần đăng ký tại nơi cư trú hợp pháp và thông báo cho Ủy ban nhân dân cấp xã hoặc cơ quan thi hành án hình sự để việc quản lý được thuận lợi, minh bạch và đúng pháp luật.
THAM KHẢO THÊM:

Tư vấn pháp luật qua Zalo


