Được nuôi dạy con cái trưởng thành vừa là trách nhiệm vừa là niềm hạnh phúc của những người làm cha, làm mẹ. Tuy nhiên không phải bất cứ cha mẹ nào cũng sẽ có quyền tuyệt đối trong quá trình chăm sóc và nuôi dưỡng con cái. Vậy theo quy định của pháp luật hiện nay thì cha mẹ bị tước quyền nuôi con trong những trường hợp nào?
Mục lục bài viết
1. Cha, mẹ bị tước quyền nuôi con trong trường hợp nào?
Xuất phát từ tinh thần được ghi nhận trong Hiến pháp năm 2013, tức là cha mẹ cần phải có trách nhiệm và nghĩa vụ nuôi dậy con cái trở thành những công dân tốt có ích cho xã hội, nhà nước và xã hội không thừa nhận việc phân biệt đối xử giữa những người con trong gia đình với nhau. Luật hôn nhân gia đình năm 2014 đã cụ thể hóa quy định này của Hiến pháp bằng quy định về quyền và nghĩa vụ của cha mẹ và con. Căn cứ theo quy định tại Điều 69 của Luật hôn nhân gia đình năm 2014 có quy định về quyền, nghĩa vụ của cha mẹ và con trong gia đình như sau:
– Yêu thương con, tôn trọng ý kiến của con, còn phải có nghĩa vụ chăm sóc cho quá trình học tập và giáo dục để con có khả năng phát triển lành mạnh về cả thể chất, trí tuệ, đạo đức, tạo điều kiện thuận lợi cho người con trở thành người hiếu thảo trong gia đình và công dân có ích cho xã hội;
– Có trách nhiệm trông nom, chăm sóc, bảo vệ quyền lợi hợp pháp của con chưa thành niên, con đã thành niên tuy nhiên bị mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động, đồng thời không có tài sản để tự nuôi chính bản thân mình;
– Có nghĩa vụ giám hộ hoặc đại diện theo quy định của Bộ luật dân sự năm 2015 đối với những đối tượng là con chưa thành niên hoặc con đã thành niên tuy nhiên bị mất năng lực hành vi dân sự;
– Không được phép thực hiện các hành vi phân biệt đối xử với các con trong gia đình dựa trên cơ sở về rối hoặc theo tình trạng hôn nhân của cha mẹ, không được lạm dụng sức lao động của con chưa thành niên hoặc con đã thành niên tuy nhiên bị mất năng lực hành vi dân sự hoặc con không có khả năng lao động, không được thực hiện các hành vi xúi giục hoặc ép buộc con cái làm việc trái quy định của pháp luật hoặc trái đạo đức xã hội.
Tuy nhiên trên thực tế, không phải cha mẹ nào cũng có quyền được trực tiếp nuôi dưỡng và giáo dục con cái. Trong một số trường hợp, cha mẹ bị tước quyền nuôi con theo quy định của pháp luật. Căn cứ theo quy định tại Điều 85 của Luật hôn nhân gia đình năm 2014 có quy định về vấn đề hạn chế quyền của cha mẹ đối với con chưa thành niên. Cụ thể như sau:
– Cha mẹ bị hạn chế quyền đối với con chưa thành niên khi thuộc một trong những trường hợp sau đây:
+ Bị kết án về một trong các tội xâm phạm đến tính mạng sức khỏe, xâm phạm đến danh dự nhân phẩm của con với lỗi cố ý, hoặc có hành vi vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ chăm sóc, nghĩa vụ nuôi dưỡng, nghĩa vụ trông nom và giáo dục con;
+ Có hành vi phá tán tài sản của con;
+ Cha mẹ có lối sống đồi trụy, vi phạm đạo đức xã hội;
+ Có hành vi xúi giục hoặc ép buộc con cái làm những việc trái quy định của pháp luật, trái đạo đức xã hội.
– Căn cứ vào từng trường hợp cụ thể, cơ quan nhà nước có thẩm quyền đó là tòa án có thể tự mình ra quyết định hoặc theo yêu cầu của cơ quan, tổ chức, cá nhân căn cứ theo quy định tại Điều 86 của Luật hôn nhân gia đình năm 2014 để ra quyết định không cho cha mẹ có quyền trông nom, chăm sóc, giáo dục con, quản lý tài sản riêng của con hoặc trở thành người đại diện theo pháp luật của con trong khoảng thời gian từ 01 năm đến 05 năm. Đồng thời, tòa án hoàn toàn có thể xem xét để rút ngắn khoảng thời gian này.
Tóm lại, cha mẹ sẽ bị tước quyền nuôi con khi thuộc một trong những trường hợp sau đây:
– Bị kết án về một trong các tội xâm phạm đến tính mạng sức khỏe, xâm phạm đến danh dự nhân phẩm của con với lỗi cố ý (tức là nhận thức rõ hành vi của mình là vi phạm quy định của pháp luật, thấy trước hậu quả tuy nhiên vẫn cố tình thực hiện và mong muốn cho hậu quả đó xảy ra), hoặc có hành vi vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ trong nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục con cái;
– Có hành vi phá tán tài sản của con;
– Cha mẹ có lối sống đồi trụy;
– Có hành vi xúi giục hoặc ép buộc con làm những việc trái pháp luật, trái đạo đức xã hội.
Đồng thời, căn cứ vào từng trường hợp cụ thể, cơ quan nhà nước có thẩm quyền đó là tòa án có thể tự mình đưa ra quyết định hoặc theo yêu cầu của các cá nhân, tổ chức có liên quan để ra quyết định về việc không cho cha mẹ trông nom, chăm sóc, giáo dục con, quản lý tài sản riêng của con hoặc trở thành người đại diện theo pháp luật của con trong khoảng thời gian từ 01 năm đến 05 năm, đồng thời khoảng thời gian này có thể bị rút ngắn theo quyết định của tòa án.
2. Cha mẹ bị tước quyền nuôi con có cần phải cấp dưỡng cho con không?
Căn cứ theo quy định tại Điều 87 của Luật hôn nhân gia đình năm 2014 có quy định về hậu quả pháp lý của việc cha mẹ bị hạn chế quyền đối với con chưa thành niên. Theo đó, cha mẹ bị hạn chế quyền đối với con chưa thành niên sẽ dẫn đến một số hậu quả pháp lý như sau:
– Trong trường hợp cha hoặc mẹ bị cơ quan nhà nước có thẩm quyền đó là tòa án tuyên bố hạn chế quyền đối với con chưa thành niên thì người còn lại sẽ có quyền thực hiện nghĩa vụ trong nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con cái, có trách nhiệm thực hiện hoạt động quản lý tài sản riêng của con và trở thành người đại diện theo pháp luật của con;
– Quá trình trông nom, chăm sóc, giáo dục con và quản lý tài sản riêng của con chưa thành niên sẽ được giao cho người giám hộ thực hiện theo quy định của Bộ luật dân sự năm 2015 và luật hôn nhân gia đình khi thuộc một trong những trường hợp sau đây: Cha mẹ đều bị cơ quan nhà nước có thẩm quyền đó là tòa án ra quyết định hạn chế quyền đối với con chưa thành niên, một bên cha hoặc mẹ không bị tuyên bố hạn chế quyền đối với con chưa thành niên tuy nhiên không đáp ứng đầy đủ điều kiện để có thể thực hiện quyền và nghĩa vụ đối với con, một bên cha hoặc mẹ bị tuyên bố hạn chế quyền đối với con chưa thành niên và đồng thời chưa xác định được bên còn lại để có thể thực hiện nghĩa vụ chăm sóc và giáo dục con chưa thành niên;
– Cha, mẹ bị cơ quan nhà nước có thẩm quyền đó là tòa án tuyên bố hạn chế quyền đối với con chưa thành niên bắt buộc vẫn phải thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng đối với con theo quy định của pháp luật.
Theo đó thì có thể nói, cha mẹ khi bị tước quyền nuôi con vẫn sẽ phải có nghĩa vụ thực hiện trách nhiệm cấp dưỡng cho con theo quy định của pháp luật.
3. Ai có thẩm quyền yêu cầu Tòa án tước quyền nuôi con của cha mẹ?
Căn cứ theo quy định tại Điều 86 của Luật hôn nhân gia đình năm 2014 có quy định về người có quyền yêu cầu tòa án hạn chế quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên. Theo đó, người có quyền yêu cầu cơ quan có thẩm quyền đó là tòa án ra quyết định tuyên bố hạn chế quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên như sau:
– Cha, mẹ, người giám hộ của con chưa thành niên theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự, hoàn toàn có quyền yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền đó là tòa án ra quyết định tuyên bố hạn chế quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên khi thuộc một trong những căn cứ do luật hôn nhân gia đình quy định;
– Các cá nhân, cơ quan, tổ chức sau đây theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự cũng có quyền yêu cầu cơ quan có thẩm quyền đó là tòa án ra quyết định tuyên bố hạn chế quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên, bao gồm: Người thân thích, cơ quan quản lý nhà nước về gia đình, cơ quan quản lý nhà nước về trẻ em, hội liên hiệp phụ nữ.
Theo đó thì có thể nói, người có thẩm quyền yêu cầu tòa án tước quyền nuôi con của cha mẹ sẽ bao gồm:
– Người thân thích;
– Cơ quan quản lý nhà nước về trẻ em;
– Cơ quan quản lý nhà nước về gia đình;
– Hội liên hiệp phụ nữ.
Các văn bản pháp luật được sử dụng trong bài viết:
– Luật Hôn nhân và gia đình 2014.
THAM KHẢO THÊM: