Người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi mà đã được chứng minh theo trình tự, thủ tục do Bộ luật tố tụng hình sự quy định và có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật. Vậy ai được xem là người bị buộc tội theo quy định tại BLHS?
Mục lục bài viết
1. Ai được xem là người bị buộc tội theo quy định tại BLHS?
Điểm đ khoản 1 Điều 4 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 được sửa đổi bổ sung năm 2021 có giải thích người bị buộc tội gồm có người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo. Theo đó, những người được xem là bị buộc tội bao gồm có:
– Người bị bắt trong các trường hợp bắt người theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Cụ thể gồm có bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, bắt người phạm tội quả tang, bắt người mà đang bị truy nã, bắt bị can, bị cáo để tạm giam, bắt người bị yêu cầu dẫn độ
– Người bị tạm giữ là người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, bị bắt trong trường hợp là phạm tội quả tang, bị bắt theo quyết định truy nã hoặc người phạm tội tự thú, đầu thú và đối với họ đã có quyết định tạm giữ
– Bị can là người hoặc pháp nhân bị khởi tố về hình sự. Quyền và nghĩa vụ của bị can là pháp nhân sẽ được thực hiện thông qua người đại diện theo pháp luật của pháp nhân.
– Bị cáo là người hoặc pháp nhân đã bị Tòa án quyết định đưa ra xét xử. Quyền và nghĩa vụ của bị cáo là pháp nhân sẽ được thực hiện thông qua người đại diện theo pháp luật của pháp nhân.
Thêm nữa, Điều 13 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 được sửa đổi bổ sung năm 2021 có quy định người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi mà đã được chứng minh theo trình tự, thủ tục do Bộ luật tố tụng hình sự quy định và có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật. Khi mà không đủ và không thể làm sáng tỏ căn cứ để buộc tội, kết tội theo đúng trình tự, thủ tục do Bộ luật tố tụng hình sự quy định thì cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải kết luận người bị buộc tội không có tội.
2. Các quyền của người bị buộc tội:
Căn cứ Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 được sửa đổi bổ sung năm 2021 thì người bị buộc tội có các quyền sau:
– Quyền chứng minh là mình vô tội: Điều 15 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 được sửa đổi bổ sung năm 2021 quy định trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Người mà bị buộc tội có quyền nhưng không buộc phải chứng minh là mình vô tội. Trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của chính mình, cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng sẽ phải áp dụng những biện pháp hợp pháp để xác định sự thật của vụ án một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ, phải làm rõ chứng cứ xác định có tội và chứng cứ xác định vô tội, những tình tiết tăng nặng và tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của người bị buộc tội.
– Quyền được bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội: Điều 16 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 được sửa đổi bổ sung năm 2021 quy định người bị buộc tội có quyền tự bào chữa, nhờ luật sư hoặc là người khác bào chữa. Cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải có trách nhiệm thông báo, giải thích và bảo đảm cho người bị buộc tội thực hiện đầy đủ các quyền bào chữa, quyền và lợi ích hợp pháp của họ theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Trong đó, người bào chữa cho người bị buộc tội được quy định như sau:
+ Người bào chữa cho người bị buộc tội phải là người được người bị buộc tội nhờ bào chữa.
+ Người bào chữa sẽ có thể là:
++ Là luật sư;
++ Là người đại diện của người bị buộc tội;
++ Là bào chữa viên nhân dân;
++ Trợ giúp viên pháp lý ở trong trường hợp người bị buộc tội thuộc đối tượng được trợ giúp pháp lý.
+ Những người sau đây sẽ không được bào chữa:
++ Người đã tiến hành tố tụng vụ án đó; là người thân thích của người đã hoặc đang tiến hành tố tụng vụ án đó;
++ Người tham gia vụ án đó với tư cách là người làm chứng, là người giám định, người định giá tài sản, người phiên dịch, người dịch thuật;
++ Người đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự, người bị kết án mà chưa được xoá án tích, người mà đang bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, cơ sở giáo dục bắt buộc.
– Quyền bình đẳng trong việc đưa ra chứng cứ, đánh giá chứng cứ, đưa ra các yêu cầu để làm rõ sự thật khách quan của vụ án: Điều 26 Bộ luật tố tụng hình sự 2015 được sửa đổi bổ sung 2021 quy định trong quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, người bị buộc tội hoàn toàn có quyền bình đẳng trong việc đưa ra chứng cứ, đánh giá chứng cứ, đưa ra những yêu cầu để làm rõ sự thật khách quan của vụ án.
+ Tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án do Viện kiểm sát chuyển đến Tòa án để xét xử phải đầy đủ và phải hợp pháp. Phiên tòa xét xử vụ án hình sự sẽ phải có mặt đầy đủ những người theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự, trường hợp vắng mặt phải vì lý do bất khả kháng hoặc là do trở ngại khách quan hoặc trường hợp khác do Bộ luật tố tụng hình sự quy định. Tòa án có trách nhiệm tạo điều kiện cho Kiểm sát viên, bị cáo, người bào chữa, những người mà tham gia tố tụng khác thực hiện đầy đủ các quyền, nghĩa vụ của mình và tranh tụng dân chủ, bình đẳng trước Tòa án.
+ Mọi chứng cứ xác định có tội, chứng cứ xác định vô tội, các tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, áp dụng điểm, khoản, điều của Bộ luật hình sự để xác định về tội danh, quyết định hình phạt, mức bồi thường thiệt hại đối với bị cáo, xử lý các vật chứng và những tình tiết khác có ý nghĩa giải quyết vụ án đều sẽ phải được trình bày, tranh luận, làm rõ tại phiên tòa. Bản án, quyết định của Tòa án sẽ phải căn cứ vào kết quả kiểm tra, đánh giá chứng cứ và kết quả tranh tụng tại phiên tòa.
3. Quy định tiến hành tố tụng đối với người bị buộc tội dưới 18 tuổi:
– Khi tiến hành tố tụng đối với người bị buộc tội dưới 18 tuổi sẽ phải đảm bảo các nguyên tắc sau:
+ Bảo đảm thủ tục tố tụng thân thiện, phù hợp với tâm lý, lứa tuổi, mức độ trưởng thành, khả năng về nhận thức của người dưới 18 tuổi; bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của chính người dưới 18 tuổi; bảo đảm lợi ích tốt nhất của người dưới 18 tuổi.
+ Phải bảo đảm giữ bí mật cá nhân của người dưới 18 tuổi.
+ Bảo đảm quyền tham gia tố tụng của người đại diện của người dưới 18 tuổi, nhà trường, Ðoàn thanh niên, người mà có kinh nghiệm, hiểu biết về tâm lý, xã hội, tổ chức khác nơi người dưới 18 tuổi học tập, lao động và sinh hoạt.
+ Tôn trọng quyền được tham gia, trình bày về ý kiến của người dưới 18 tuổi.
+ Bảo đảm quyền bào chữa, quyền được trợ giúp pháp lý của người mà dưới 18 tuổi.
+ Bảo đảm những nguyên tắc xử lý của Bộ luật hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội.
+ Bảo đảm giải quyết nhanh chóng, kịp thời những vụ án liên quan đến người dưới 18 tuổi.
– Những vấn đề cần xác định khi tiến hành tố tụng đối với những người bị buộc tội là người dưới 18 tuổi bao gồm:
+ Tuổi, mức độ phát triển về thể chất và về tinh thần, mức độ nhận thức về hành vi phạm tội của người dưới 18 tuổi.
+ Ðiều kiện sinh sống và điều kiện giáo dục.
+ Có hay là không có người đủ 18 tuổi trở lên xúi giục.
+ Các nguyên nhân, điều kiện, hoàn cảnh phạm tội.
Những văn bản pháp luật được sử dụng trong bài viết:
– Bộ luật tố tụng hình sự 2015 được sửa đổi bổ sung 2021.