Giải pháp tăng cường bảo đảm hiệu quả quyền con người trong việc ứng dụng công nghệ sinh học trên thế giới và ở Việt Nam hiện nay.
Mục lục bài viết
- 1 1. Nhóm giải pháp hoàn thiện thể chế pháp luật:
- 2 2. Nhóm giải pháp hoàn thiện cơ chế, bộ máy bảo đảm:
- 3 3. Nhóm giải pháp tăng cường năng lực thực thi:
- 4 4. Nhóm giải pháp tăng cường nhận thức về pháp luật quốc tế và quốc gia về bảo đảm quyền con người trong ứng dụng công nghệ sinh học:
- 5 5. Nhóm giải pháp tăng cường hợp tác quốc tế, chia sẻ kinh nghiệm bảo đảm quyền con người trong ứng dụng công nghệ sinh học:
1. Nhóm giải pháp hoàn thiện thể chế pháp luật:
Thứ nhất, hoàn thiện hệ thống pháp luật về quyền con người
Đầu tiên, cần rà soát các quy định của pháp luật hiện hành và các hoạt động hành chính cũng như các dự thảo, từ đó kiện toàn hệ thống pháp luật trên nguyên tắc phát huy nhân tố con người, bảo đảm thực hiện tốt hơn các quyền và tự do cơ bản của người dân, bảo đảm hệ thống pháp luật quốc gia hài hòa và phù hợp với các chuẩn mực pháp luật quốc tế, đồng thời tạo điều kiện thuận lợi cho việc triển khai việc thực hiện các điều ước quốc tế trong thực tiễn.
Tiếp đó, cần có những nghiên cứu chuyên sâu về tinh thần và nội dung cơ bản của các điều khoản cụ thể trong quy định của các Công ước Liên Hợp quốc về quyền con người và các văn kiện có liên quan mà các quốc gia là thành viên, để từ đó nhận thức và quán triệt đầy đủ các quy định của các Công ước và văn kiện trong việc xây dựng và sửa đổi các quy định pháp luật quốc gia tương thích với các cam kết đó.
Bên cạnh đó, cần khẩn trương tiến hành nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung các đạo luật hiện hành, đặc biệt là các đạo luật đang gặp phải nhiều hạn chế cần điều chỉnh để đảm bảo hơn về quyền con người nhằm kịp thời khắc phục những lỗ hổng pháp lý. Trên cơ sở đó, tiếp tục hoàn thiện các quy định của pháp luật hiện hành về quyền con người, quyền công dân. Đặc biệt, trong quá trình xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật đó đòi hỏi tăng cường hoạt động lập pháp của Quốc hội (cơ quan đại diện cao nhất của nhân dân) như là điều kiện tiên quyết để bảo đảm quyền con người.
Thứ hai, tăng cường kỷ luật, quản lý trong công tác xây dựng pháp luật nói chung, pháp luật về quyền con người nói riêng
Phải có giải pháp cụ thể, đồng bộ để xây dựng, bố trí, điều động, luân chuyển các cán bộ, công chức có năng lực làm công tác xây dựng pháp luật, pháp chế theo hướng chuyên nghiệp và hiện đại, đáp ứng các yêu cầu công việc đặt ra. Tăng cường đào tạo, bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng, nghiệp vụ cho đội ngũ này. Củng cố kiện toàn tổ chức pháp chế, tổ chức làm công tác xây dựng pháp luật. Ưu tiên, tăng cường nguồn lực, nhất là nguồn tài chính đầu tư cho công tác xây dựng pháp luật.
Tăng cường kỷ luật, kỷ cương trong công tác xây dựng pháp luật thông qua phân công rõ trách nhiệm của từng đơn vị, cá nhân trong nghiên cứu xây dựng, đề xuất chính sách và soạn thảo, trình văn bản quy phạm pháp luật. Khắc phục triệt để tình trạng chậm, nợ ban hành văn bản pháp luật. Chú trọng kiểm tra, phát hiện, ngăn chặn và kiên quyết xử lý nghiêm các hành vi “tham nhũng, trục lợi chính sách”.
Thứ ba, xây dựng và hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật, cơ chế, chính sách nhằm thúc đẩy phát triển công nghệ sinh học hiện đại
Cần xây dựng và ban hành các cơ chế, chính sách ưu đãi nhằm hỗ trợ, thúc đẩy phát triển và ứng dụng công nghệ sinh học phục vụ công nghiệp hoá, hiện đại hoá tại mỗi quốc gia, trong đó chú trọng đến các chính sách thu hút, tăng cường và đa dạng hoá các nguồn lực đầu tư; chính sách ưu đãi nhằm thu hút, sử dụng có hiệu quả đội ngũ cán bộ khoa học và trọng dụng nhân tài; chính sách khuyến khích và hỗ trợ các hoạt động chuyển giao và áp dụng công nghệ, tiến bộ kỹ thuật mới vào sản xuất nhằm gắn kết chặt chẽ công nghệ sinh học với sản xuất, kinh doanh và dịch vụ; chính sách hỗ trợ các doanh nghiệp tự xây dựng cơ sở nghiên cứu và ứng dụng công nghệ sinh học; chính sách ưu đãi nhằm thúc đẩy việc phát triển nhanh các doanh nghiệp sinh học vừa và nhỏ, làm tiền đề cho việc phát triển ngành công nghiệp sinh học ở quốc gia mình.
Thứ tư, xây dựng và hoàn thiện khung văn bản quy phạm pháp luật về quản lý và kiểm soát công nghệ sinh học
Về vấn đề an toàn sinh học, cần rà soát, sửa đổi, bổ sung và ban hành mới các văn bản quy phạm pháp luật nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật, thể chế và tăng cường công tác quản lý nhà nước trong lĩnh vực công nghệ sinh học, trước mắt tập trung xem xét để ban hành quy chế quản lý an toàn sinh học đối với các sinh vật biến đổi gen và sản phẩm, hàng hoá có nguồn gốc từ sinh vật biến đổi tiến tới xây dựng và ban hành Luật An toàn sinh học nhằm tăng cường công tác quản lý nhà nước về công nghệ sinh học, đồng thời tạo hành lang pháp lý để thúc đẩy phát triển gen, nhanh và ứng dụng mạnh mẽ công nghệ sinh học trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
Các xu hướng quy định để chi phối việc sử dụng an toàn công nghệ sinh học cần tiếp tục hoàn thiện dựa trên cơ sở nguyên tắc của Nghị định thư Cartagena về an toàn sinh học. Bên cạnh đó, cần thực hiện các đánh giá dựa trên cơ sở khoa học, theo từng trường hợp, xác định mối nguy và đánh giá rủi ro; quy định sản phẩm cuối cùng nhưng cũng cần quan tâm đến chính quá trình sản xuất; phát triển một khuôn khổ quy định dựa trên các thể chế hiện có, đồng thời tạo cơ hội để xây dựng thiết lập các thể chế mới phù hợp hơn; và xây dựng tính linh hoạt để giảm bớt quy định đối với các sản phẩm sau khi chúng đã được chứng minh là có rủi ro thấp.
Về vấn đề đạo đức sinh học, một niềm tin đã được kiểm chứng rõ ràng rằng sự phát triển bền vững của một quốc gia cần đi kèm với việc thiết lập một cơ sở hạ tầng đạo đức sinh học với chức năng nhằm thúc đẩy giáo dục, cung cấp hướng dẫn và nâng cao nhận thức của cộng đồng và tham gia vào các vấn đề đạo đức khác nhau mà xã hội đang đối mặt. Đạo đức là một thành phần quan trọng đảm bảo sự phát triển bền vững thông qua việc tối đa hóa lợi ích của đổi mới khoa học và công nghệ và đặt nền tảng đạo đức để tạo ra các nền kinh tế và xã hội dựa trên tri thức. Đối với các quốc gia đang tìm cách tăng tốc phát triển kinh tế và xã hội bền vững thông qua ứng dụng công nghệ sinh học, việc xây dựng năng lực quốc gia để giải quyết các vấn đề đạo đức sinh học là điều bắt buộc, bởi lẽ: Đạo đức sinh học đảm bảo rằng khoa học luôn đi kèm với sự phản ánh đạo đức về tác động của nó đối với con người và môi trường của họ.
Tăng cường khung pháp lý quốc gia thông qua đẩy nhanh tiến trình xây dựng “Luật đạo đức sinh học” để thúc đẩy hành lang pháp lý cho đạo đức sinh học nhằm đưa chúng trở thành công cụ quản lý và kiểm soát có hiệu quả và mạnh mẽ hơn. Thông qua cách tiếp cận đạo đức sinh học, các chính phủ có thể đảm bảo rằng công dân của họ thu được lợi ích công bằng, chính đáng từ việc sử dụng tri thức bản địa trên toàn cầu. Đồng thời, đưa ra các hướng dẫn để bảo vệ môi trường, sinh quyển và đa dạng sinh học, thúc đẩy cách tiếp cận để quản lý các nguồn tài nguyên có tính đến các quyền và nhu cầu của các thế hệ tương lai. Đặc biệt, thúc đẩy vai trò lãnh đạo tích cực của UNESCO và sự tham gia của tổ chức vào quá trình ra quyết định về các biện pháp ứng phó với các vấn đề về đạo đức sinh học.
Không chỉ vậy, cần hoàn thiện pháp luật về quản lý trong nghiên cứu, thí nghiệm y sinh học. Đặc biệt là yêu cầu cần phải có chuyên gia về luật, chuyên gia về quyền con người tham gia vào việc đánh giá các nghiên cứu y sinh của Hội đồng đạo đức cấp quốc gia trong bối cảnh nhu cầu về việc kiểm soát các nghiên cứu, thử nghiệm vắc xin Covid-19 đang diễn ra hết sức phức tạp trên phạm vi toàn cầu.
Thứ năm, tăng cường nghiên cứu khoa học xã hội, đạo đức, pháp lý để định hưởng chính sách và pháp luật phù hợp
Tăng cường nghiên cứu khoa học xã hội hiện tại cũng sẽ cần thiết để xác định bối cảnh xã hội và kinh tế nơi công nghệ sinh học phát triển, cũng như các tác động liên quan, để hướng dẫn các chính sách nghiên cứu và phát triển công nghệ sinh học phù hợp.
Bên cạnh đó, nghiên cứu về đạo đức cần được phát triển trong xã hội với tác động của công nghệ sinh học. Những ý kiến trái chiều về đạo đức vẫn chưa phù hợp trong nỗ lực tài chính khổng lồ dành cho công nghệ sinh học. Các nhà đạo đức học nên được khuyến khích giải quyết các vấn đề về đạo đức trong ứng dụng công nghệ sinh học và ngược lại trong quá trình nghiên cứu, ứng dụng công nghệ sinh học nên cố gắng tương tác chặt chẽ với các nhà đạo đức học và luật học. Chương trình đạo đức của UNESCO có thể đóng một vai trò chủ chốt trong việc cung cấp một nền tảng quốc tế về đạo đức của công nghệ sinh học, đóng vai trò như một cơ quan cung cấp kiến thức trong việc thiết lập cơ sở dữ liệu thông tin liên quan đến đạo đức và chính trị (là một phần của Đài quan sát đạo đức toàn cầu).
Điều quan trọng nữa là phải giải quyết bối cảnh pháp lý (ví dụ: luật người tiêu dùng liên quan đến thực phẩm biến đổi gen; luật an toàn lao động về vấn đề an toàn và sức khỏe nghề nghiệp cho các nhà nghiên cứu, các khiếu nại do sơ suất hình sự đối với các tập đoàn nghiên cứu và ứng dụng công nghệ sinh học; luật liên quan đến phát triển công nghệ, sản xuất và phổ biến). Nghiên cứu này cần phải đảm bảo tính liên ngành.
UNESCO nên thúc đẩy nghiên cứu các vấn đề về đạo đức, pháp lý và xã hội (ELSI) như một công cụ quan trọng trong khuôn khổ nghiên cứu công nghệ của các quốc gia và nên dành một tỷ lệ nhất định trong ngân sách nghiên cứu công nghệ sinh học nên được phân bổ cho nghiên cứu ELSI.
2. Nhóm giải pháp hoàn thiện cơ chế, bộ máy bảo đảm:
Thứ nhất, thành lập các Cơ quan nhân quyền quốc gia (NHRIS)
Trong những năm qua, ngày càng có nhiều nhận thức về sự cần thiết phải tăng cường, ở cấp quốc gia, hành động phối hợp nhằm thực hiện và đảm bảo tuân thủ các quy tắc và tiêu chuẩn về quyền con người. Một trong những phương tiện được sử dụng để làm điều này là thành lập các NHRIs. Mặc dù thuật ngữ này bao gồm một loạt các cơ quan có tên gọi khác nhau dựa theo hình thức tồn tại như: Ủy ban nhân quyền quốc gia, thanh tra Quốc hội, người bảo vệ công cộng, v.v…các cơ quan này có địa vị pháp lý, thành phần, cơ cấu, chức năng và nhiệm vụ khác nhau, tất cả đều do Chính phủ hoặc Quốc hội thành lập để hoạt động độc lập – như một cơ quan tư pháp – nhằm thúc đẩy và bảo vệ quyền con người.
Để thúc đẩy và bảo vệ có hiệu quả quyền con người trên phạm vi lãnh thổ của mình, nhiều quốc gia trên thế giới đã thiết lập cơ quan nhân quyền trong bộ máy nhà nước, có thể độc lập hoặc bán độc lập với bộ máy nhà nước. Trong khi đó, vẫn còn nhiều quốc gia chưa có cơ quan nhân quyền riêng biệt (trong đó có Việt Nam) từ đó dẫn đến việc bảo đảm quyền con người chưa được duy trì ổn định và hiệu quả. Do đó, cần xây dựng một khuôn khổ pháp lý thích hợp để thành lập các NHRIs phù hợp với Nguyên tắc Paris (được Đại Hội đồng Liên Hợp quốc thông qua bằng Nghị quyết số 48/134 năm 1993) ở mỗi quốc gia, đảm bảo tính độc lập, phù hợp và trách nhiệm giải trình trực tiếp trước Quốc hội.
Thứ hai, xây dựng “Kế hoạch hành động nhân quyền quốc gia”
Không có quốc gia nào trên thế giới có hồ sơ nhân quyền hoàn hảo. Hơn nữa, vì mỗi quốc gia phải xây dựng chính sách nhân quyền của mình phù hợp với hoàn cảnh chính trị, văn hóa, lịch sử và luật pháp cụ thể, nên không có cách tiếp cận duy nhất cho tất cả các quốc gia để giải quyết các vấn đề nhân quyền. Theo đó, Hội nghị Nhân quyền Thế giới tại Vienna, được tổ chức vào năm 1993, đã khuyến khích các Quốc gia vạch ra các kế hoạch hành động nhân quyền quốc gia để phát triển một chiến lược nhân quyền phù hợp với tình hình của chính họ. Việc thông qua các kế hoạch hành động quốc gia phải là một nỗ lực thực sự của quốc gia, không có những cân nhắc chính trị đảng phái. Một kế hoạch hành động quốc gia phải được hỗ trợ bởi Chính phủ và liên quan đến tất cả các thành phần của xã hội, bởi vì sự thành công của nó phần lớn phụ thuộc vào mức độ mà người dân nắm quyền sở hữu nó. Chức năng chính của một kế hoạch nhân quyền quốc gia là cải thiện việc thúc đẩy và bảo vệ các quyền con người. Vì vậy, cải thiện quyền con người được thể hiện như những mục tiêu hữu hình của chính sách công cần đạt được thông qua việc thực hiện các chương trình, cụ thể là sự tham gia của tất cả các thành phần liên quan của Chính phủ, xã hội và phân bổ đủ nguồn lực.
Kế hoạch phải dựa trên đánh giá vững chắc về nhu cầu nhân quyền một quốc gia. Nó phải cung cấp hướng dẫn về việc thúc đẩy và bảo vệ quyền con người cho các chức Chính phủ, các tổ chức phi chính phủ, các nhóm chuyên nghiệp, các nhà giáo dục và vận động và các thành viên khác của xã hội dân sự. Nó cũng cần thúc đẩy việc phê chuẩn các công cụ nhân quyền và nâng cao nhận thức về các tiêu chuẩn nhân quyền, đặc biệt là đối với tình hình nhân quyền của các nhóm dễ bị tổn thương.
Cần có những giải pháp cho việc thành lập một kế hoạch hành động nhân quyền quốc gia hoàn chỉnh tại mỗi quốc gia, trong đó đòi hỏi cần phải có một số yếu tố có tác động tích cực trực tiếp đến hiệu quả của nó như là: hỗ trợ chính trị liên tục; lập kế hoạch minh bạch và có sự tham gia của người dân; đánh giá toàn diện về tình hình nhân quyền; ưu tiên thực tế các vấn đề cần giải quyết và cách tiếp cận theo định hướng hành động; tiêu chí thực hiện rõ ràng và cơ chế có sự tham gia mạnh mẽ để giám sát và đánh giá; cam kết đầy đủ các nguồn lực.
Thứ ba, nâng cao vai trò của chính quyền địa phương trong việc bảo đảm quyền con người
Nhấn mạnh vai trò và trách nhiệm của các nhà cầm quyền địa phương trong việc hỗ trợ và bảo vệ quyền con người. Các quá trình phân quyền của các nhà cầm quyền các nước cần được hiểu là trách nhiệm để bảo vệ quyền con người, quyền công dân. Các quan chức chính quyền địa phương cần tiếp cận các chương trình giáo dục quyền con người và cần nhận được sự ủng hộ và khuyến khích của các nhà cầm quyền quốc gia với những nỗ lực để đáp ứng các tiêu chuẩn quyền con người trong quá trình hoạt động, quản lý của họ. Các nhà cầm quyền địa phương cần được yêu cầu đóng góp thông tin vào báo cáo quốc gia về việc thực hiện đảm bảo quyền con người.
Thứ tư, tăng cường các chương trình nghị sự về công lý và nhân quyền có nội quan đến công nghệ sinh học (ở cả cấp độ quốc tế và cấp độ quốc gia) Đây sẽ là chìa khóa để các quốc gia đáp ứng hiệu quả, gia tăng các xu hướng dùng liên mới và các nguyên tắc cơ bản về quản trị – công lý hiệu quả. Chương trình sẽ thúc đẩy đảm bảo các cơ chế có tính trách nhiệm giải trình và minh bạch, tuân thủ luật pháp, thúc đẩy người dân tham gia vào việc ra quyết định và tìm cách bảo đảm quyền con người trước những rủi ro của công nghệ sinh học. Các chương trình cũng cần đề ra các giải pháp về: chú trọng thể chế hóa, hoàn thiện pháp luật về tổ chức, bộ máy theo hướng tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; hỗ trợ việc quản trị tốt và chính sách quản lý.
Thứ năm, cần khuyến khích thành lập các Ủy ban Quốc gia về Đạo đức Khoa học và Công nghệ (tương đương với COMEST ở cấp quốc gia và khu vực) để xử lý các vấn đề về công nghệ sinh học. Các ủy ban như vậy cũng có thể hoạt động như một nền tảng lâu dài hơn cho các cuộc tranh luận công khai và giao tiếp công khai về vấn đề đạo đức sinh học từ đó chỉ ra các tồn tại góp phần thúc đẩy hoàn thiện kịp thời các giải pháp.
3. Nhóm giải pháp tăng cường năng lực thực thi:
Thứ nhất, tăng cường hiệu quả công tác tổ chức thi hành Hiến pháp, pháp luật nói chung, pháp luật về quyền con người nói riêng. Trước tiên, cần tổ chức thực hiện có hiệu quả các nhiệm vụ, giải pháp về gắn kết việc xây dựng pháp luật với tăng cường hiệu quả thi hành pháp luật. Bằng việc chủ động rà soát pháp luật thuộc các lĩnh vực quản lý để đề xuất nội dung hoàn thiện pháp luật, kịp thời xử lý những nội dung mâu thuẫn, chồng chéo, bất cập hoặc không phù hợp thực tiễn về bảo đảm quyền con người, quyền công dân, hội nhập quốc tế và thực hiện các cam kết quốc tế, nhất là các điều ước quốc tế về nhân quyền mà quốc gia đang là thành viên. Xây dựng Bộ tiêu chí đánh giá hiệu quả thi hành pháp luật làm công cụ phục vụ nhiệm vụ theo dõi thi hành pháp luật về quyền con người.
Bên cạnh đó, cần xác định rõ cơ chế phân công, trách nhiệm phối hợp giữa các cơ quan, tổ chức, cá nhân, nhất là trách nhiệm của người đứng đầu trong công tác tổ chức thi hành pháp luật về bảo đảm quyền con người. Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát việc tổ chức thi hành pháp luật; cơ chế giám sát của cơ quan nhà nước và xã hội. Bên cạnh đó, tăng cường thiết chế theo dõi và đánh giá tình hình thi hành pháp luật để đề xuất các giải pháp thực thi hiệu quả. Hơn nữa, cần phát hiện và xử lý nghiêm minh, kịp thời các hành vi vi phạm pháp luật. Đối với các vụ việc vi phạm trong tổ chức thi hành pháp luật, cần có sự lãnh đạo, chỉ đạo của chính quyền các cấp, kịp thời có biện pháp xử lý kiên quyết, triệt để, đúng pháp luật.
Thứ hai, tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác xây dựng và thi hành pháp luật, nhằm bảo đảm tiến độ, nâng cao chất lượng các văn bản quy phạm pháp luật và tăng cường hiệu quả thi hành pháp luật.
Thứ ba, tiếp tục kiện toàn đội ngũ quản lý, giám sát làm công tác pháp chế trong Bộ máy nhà nước và các đơn vị tư nhân, doanh nghiệp. Điều động, luân chuyển nhân sự đáp ứng đủ năng lực, trình độ để làm tốt công tác pháp chế, bảo đội ngũ nhân sự làm công tác này có năng lực, trình độ phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ được giao, đảm bảo việc tham gia của cán bộ pháp chế vào công tác giám sát và thực thi việc bảo vệ quyền con người.
Thứ tư, cần tăng cường hơn nữa năng lực phản ứng chính sách về nhân quyền trong quá trình tổ chức thi hành pháp luật, nhất là trong việc tiếp nhận, xử lý phản ánh, kiến nghị của người dân, tổ chức, doanh nghiệp. Chú trọng đối thoại với doanh nghiệp, người dân về vướng mắc, bất cập trong thực thi chính sách, pháp luật liên đến nhân quyền.
Thứ năm, thực hiện các chính sách quốc gia để khắc phục những điểm còn tồn đọng trong việc thực thi Luật nhân quyền quốc tế, chẳng hạn như: nỗ lực đẩy mạnh các chương trình cải cách hành chính nhằm ngăn chặn và đẩy lùi tệ nạn quan liêu, tham nhũng, phát huy dân chủ và nâng cao hiệu lực của Nhà nước pháp quyền, tăng cường các thể chế quốc gia bảo vệ quyền con người, trong đó có việc nghiên cứu khả năng thành lập Cơ quan nhân quyền quốc gia tại các quốc gia đang thiếu hụt là đặc biệt quan trọng,
4. Nhóm giải pháp tăng cường nhận thức về pháp luật quốc tế và quốc gia về bảo đảm quyền con người trong ứng dụng công nghệ sinh học:
Đây là nhóm vấn đề trọng tâm cần trú trọng nhất liên quan đến vấn đề bảo đảm quyền con người trong ứng dụng công nghệ sinh học.
Thứ nhất, tăng cường nhận thức về pháp luật quốc tế và quốc gia về quyền con người thông qua giáo dục và đào tạo quyền con người
Ta có thể hiểu khái quát giáo dục nhân quyền là những hoạt động giảng dạy, tập huấn và phổ biến thông tin về quyền con người, nhằm xây dựng một nền văn hóa nhân quyền trong đó hướng tới: Tăng cường sự tôn trọng các quyền và tự do cơ bản của con người, phát triển đầy đủ nhân phẩm và ý thức về nhân phẩm của con người, đồng thời, thúc đẩy sự hiểu biết, khoan dung, bình đẳng giới và tình hữu nghị giữa các quốc gia, các nhóm dân tộc, chủng tộc, tôn giáo và ngôn ngữ. Từ đó tạo điều kiện cho tất cả mọi người tham gia một cách hiệu quả vào các hoạt động của xã hội.
Là tổ chức quốc tế tiên phong trong hoạt động thúc đẩy và bảo vệ nhân quyền, Liên Hợp quốc đặc biệt quan tâm đến vấn đề giáo dục nhân quyền, xem đó như là một biện pháp cốt yếu và một chiến lược hiệu quả để ngăn chặn các vi phạm nhân quyền cũng như để xây dựng các xã hội bình đẳng, tự do và hòa bình. Đại hội đồng Liên Hợp quốc cần tăng cường khuyến nghị các quốc gia thành viên xây dựng và thực hiện các kế hoạch quốc gia về giáo dục nhân quyền. Kế hoạch quốc gia này bao gồm nhiều hoạt động, trong đó có việc thành lập hoặc tăng cường các cơ sở, tổ chức và các nguồn lực cho hoạt động giáo dục nhân quyền ở quốc gia cần được ưu tiên đầu tư. Đồng thời, Văn phòng Cao ủy Nhân quyền Liên Hợp quốc tiếp tục đẩy mạnh việc biên soạn nhiều tài liệu về giáo dục nhân quyền cho phù hợp với xu hướng phát triển mới của xã hội và thực trạng đang diễn ra, đồng thời, cung cấp miễn phí cho các chủ thể có nhu cầu bằng nhiều phương thức tiếp cận hơn nữa thay vì chỉ thông trang thông tin điện tử của Văn phòng.
Ở phương diện quốc gia, các hoạt động giáo dục được thực hiện theo hình thức tập huấn việc áp dụng các tiêu chuẩn về quyền con người trong các hoạt động nghề nghiệp, ví dụ như cho các thẩm phán, luật sư, các cán bộ cảnh sát, quân nhân hay những người giám sát hoạt động quyền con người. Trong một số trường hợp khác, giáo dục quyền con người có thể mở rộng đến các cấp trung học và đại học, hoặc phổ biến thông tin về các tiêu chuẩn quyền con người cho quần chúng nói chung hoặc cho các nhóm dễ bị tổn thương.
Thứ hai, tăng cường năng lực, nâng cao nhận thức về những tác động của công nghệ sinh học đối với quyền con người
Để tăng cường năng lực, nâng cao nhận thức về những tác động của công nghệ sinh học thì chúng ta cần thu thập và phổ biến thông tin về sự vi phạm quyền con người của công nghệ sinh học. Những tổ chức có thẩm quyền nói chung và người bảo vệ quyền con người nói riêng cần điều tra, tập hợp những thông tin có liên quan và báo cáo về những vi phạm quyền con người liên quan đến những ứng dụng công nghệ sinh học. Ví dụ, họ có thể sử dụng các chiến thuật vận động hành lang để những báo cáo của mình gây được sự chú ý của cộng đồng và những nhà chính trị, nhà lập pháp chủ chốt, nhằm đảm bảo rằng công việc điều tra của họ được quan tâm đến, và những vi phạm quyền con người trong lĩnh vực này sẽ được xem xét và giải quyết. Thông thường, những hoạt động như vậy được tiến hành thông qua các tổ chức quyền con người có báo cáo thường kỳ về kết quả nghiên cứu của họ. Tuy nhiên, thông tin cũng có thể được tổng hợp, báo cáo bởi một cá nhân và chỉ tập trung vào một vấn đề lạm dụng quyền con người cụ thể.
Bên cạnh đó, truyền thông có thể thực hiện một vai trò quan trọng trong việc hỗ trợ cung cấp thông tin về các hành vi chống lại quyền con người của những ứng dụng công nghệ sinh học. Các sáng kiến để tăng cường vai trò của truyền thông liên quan đến vấn đề này có thể được thực hiện bởi các tổ chức truyền thông và các tổ chức phi chính phủ khác, có thể bao gồm đào tạo quyền con người hay bảo đảm sự tiếp cận thường xuyên với những thông tin về quyền con người.
Đặc biệt, là sự cần thiết của cuộc tranh luận công khai, cân bằng, có thông tin và liên ngành. Để có được một cuộc tranh luận như vậy cần phải thừa nhận rằng công nghệ sinh học đang đặt ra nhiều kỳ vọng và lo lắng có thể thúc đẩy cuộc đối thoại về an toàn và đạo đức sinh học theo hướng tích cực và tiêu cực. Cuộc tranh luận thực và có thông tin dựa trên việc cân nhắc kỹ lưỡng tất cả dữ liệu khi công nghệ sinh học đang phát triển nên được thúc đẩy, tránh kết luận tích cực hoặc tiêu cực mà không có bằng chứng cần thiết. Cần cung cấp nhiều thông tin sắc thái khách quan và chính xác hơn để công chúng cũng như các nhà hoạch định chính sách hiểu rõ hơn. UNESCO cần nâng cao nhận thức về cả rủi ro và lợi ích của công nghệ sinh học, đặc biệt là giữa các Quốc gia thành viên có ít hoặc không có năng lực về công nghệ sinh học; về trách nhiệm giải trình công khai của các nhà khoa học và kỹ sư để đảm bảo sự phát triển có trách nhiệm của công nghệ sinh học; về trách nhiệm của công chúng trong việc tìm kiếm kiến thức chính xác và tham gia vào việc xây dựng chính sách công liên quan đến công nghệ sinh học; và về sự cần thiết phải quản lý các tác động gây rối loạn nghiêm trọng đối với cộng đồng trong những biến đổi xã hội do công nghệ sinh học gây ra. Cuộc tranh luận này cần tính đến các mục tiêu phát triển lâu dài.
Thứ ba, tăng cường nhận thức về đạo đức sinh học thông qua giáo dục, đào tạo, hướng dẫn về đạo đức sinh học và thành lập ủy ban đạo đức độc lập.
Để thúc đẩy các nguyên tắc về đạo đức sinh học có nêu tại các tuyên bố và tuyên ngôn của UNESCO đã đề cập đến và để hiểu rõ hơn về ý nghĩa đạo đức của sự phát triển khoa học và công nghệ, các quốc gia cần nỗ lực thúc đẩy giáo dục và đào tạo đạo đức ở tất cả các cấp cũng như khuyến khích cung cấp thông tin và các chương trình phổ biến kiến thức về đạo đức sinh học. Bên cạnh đó, các quốc gia cần khuyến khích sự tham gia của các tổ chức liên chính phủ quốc tế và khu vực, các tổ chức phi chính phủ quốc tế, khu vực và quốc gia trong nỗ lực này.
Sự tham gia của cộng đồng và các chiến lược giáo dục đối với công nghệ sinh học là cần thiết. Nhu cầu giáo dục đạo đức đầy đủ của các nhà khoa học và kỹ sư thường được nhấn mạnh. Đó là hệ quả của những đòi hỏi về đạo đức đối với sự liên ngành và một cái nhìn tổng thể về khoa học và những tác động của nó đối với xã hội theo nghĩa rộng nhất. Do đó, tính liên ngành của công nghệ sinh học tăng cường nhu cầu giảng dạy đạo đức rõ ràng ở tất cả các cấp học cho các nhà khoa học và kỹ sư liên đến công nghệ sinh học. Đặc biệt, nó cũng tăng cường nhu cầu giáo dục khoa học cho các chuyên gia trong các lĩnh vực khoa học xã hội và nhân văn liên quan đến các vấn đề đạo đức, luật pháp và xã hội của công nghệ sinh học. Thái độ đối với giáo dục đạo đức sinh học có thể khác nhau tùy theo nền tảng văn hóa. Trong phạm vi có thể, giáo dục khuyến khích tư duy phản biện nên được ưu tiên.
Do đó, UNESCO có thể lập bản đồ các chương trình hiện có về giáo dục đạo đức, đặc biệt tập trung vào công nghệ sinh học. Bằng cách, tiếp tục thúc đẩy sự phát triển và giới thiệu các chương trình về đạo đức sinh học trong giáo trình khoa học và kỹ thuật. UNESCO cũng cần tiếp tục phát triển và hoàn thiện hơn nữa các khóa học cơ bản về đạo đức và công nghệ sinh học cho các nhà khoa học và kỹ sư thông qua Chương trình Giáo dục Đạo đức (EEP), đồng thời mở rộng sang các đối tượng khác. Những thách thức mà sự đa dạng văn hóa đại diện cho sự phát triển của một chương trình cốt lõi như vậy cần được tính đến.
Ngoài một chương trình cốt lõi chung về giáo dục đạo đức có thể được áp dụng cho các vùng khác nhau, các hướng dẫn cụ thể về đạo đức cũng có thể được xây dựng làm cơ sở chỉ định (hướng dẫn tuân thủ tự nguyện) và được đưa vào các chương trình giáo dục cùng với các tài liệu giáo dục do UNESCO xuất bản. Việc xây dựng các hướng dẫn như vậy sẽ đòi hỏi một quá trình tham vấn sâu rộng và có thể diễn ra trong khuôn khổ sự phản đối liên tục của UNESCO về đạo đức khoa học. Các quốc gia thành viên trong quá trình thực hiện nhằm hiện thực hóa tiến bộ các khuyến nghị đạo đức liên quan đến công nghệ sinh học, đặc biệt là trong bối cảnh quốc gia và khu vực. Các hướng dẫn có thể được xây dựng trong quá trình tham vấn và được đề xuất như một khuôn khổ đạo đức chỉ dẫn cho các quốc gia, tập đoàn hoặc tổ chức khoa học nhằm đề xuất sự hài hòa các nguyên tắc đạo đức liên quan đến công nghệ sinh học và khuyến nghị các hành động cần thực hiện đối với nghiên cứu và ứng dụng trong lĩnh vực này. Những hướng dẫn như vậy cũng có thể truyền cảm hứng cho các quy định quốc gia.
Các quốc gia cần thực hiện tất cả các biện pháp thích hợp, cho dù là cơ quan lập pháp, hành chính hay các đối tượng có liên quan khác, để có hiệu lực đối với các nguyên tắc, quy định của Luật nhân quyền quốc tế và các văn kiện có liên quan về bảo đảm quyền con người trong vấn đề đạo đức sinh học. Các biện pháp như vậy cần được hỗ trợ bằng hành động trong lĩnh vực giáo dục, đào tạo và thông tin công cộng. Các quốc gia nên khuyến khích việc thành lập các ủy ban đạo đức độc lập, đa ngành và đa nguyên.
Thứ tư, nâng cao năng lực về pháp luật và quản lý an toàn sinh học
Mỗi quốc gia cần xây dựng và đưa vào vận hành Cổng thông tin điện tử về an toàn sinh học. Cổng thông tin là địa chỉ tra cứu hữu ích cho doanh nghiệp, công chúng quan tâm về các thông tin liên quan đến an toàn sinh học đối với sinh vật biến đổi gen trong nước và quốc tế cũng như là công cụ để nâng cao nhận thức của cộng đồng về công nghệ chuyển gen.
Bên cạnh đó, cần phối hợp với các cơ quan truyền thông xây dựng các phóng sự, phim tài liệu về việc quản lý an toàn sinh học đối với sinh vật biến đổi gen; in ấn và phát hành các ấn phẩm có nội dung liên quan đến vấn đề an toàn sinh học đối với sinh vật biến đổi gen theo hướng dẫn giải thích Nghị định thư Cartagena về an toàn sinh học về các vấn đề như: đánh giá và quản lý rủi ro các sinh vật biến đổi gen; các câu hỏi thường gặp về an toàn sinh học; khung phân tích rủi ro; kiến thức cơ bản về sinh vật biến đổi gen và an toàn sinh học đối với sinh vật biến đổi gen; quản lý an toàn sinh học đối với sinh vật biến đổi gen, sản phẩm của sinh vật biến đổi gen,…
Các cơ quan chức năng của quốc gia cần tăng cường phối hợp với các tổ chức trong nước và quốc tế tổ chức các hội thảo, tập huấn, đào tạo nhằm tăng cường năng lực cho các cán bộ quản lý, nhà nghiên cứu và nâng cao nhận thức của cộng đồng về sinh vật biến đổi gen.
5. Nhóm giải pháp tăng cường hợp tác quốc tế, chia sẻ kinh nghiệm bảo đảm quyền con người trong ứng dụng công nghệ sinh học:
Giải quyết hiệu quả các thách thức liên quan đến quyền con người trong bối cảnh phát triển công nghệ sinh học hiện đại đòi hỏi sự tham gia liên tục, có phối hợp của các bên liên quan, bao gồm các quốc gia thành viên, xã hội dân sự, các tổ chức khoa học và kỹ thuật, khu vực kinh doanh, các nhà nghiên cứu và chuyên gia về nhân quyền. Để bảo đảm quyền con người trong lĩnh vực này cũng không thể thiếu sự hợp tác quốc tế trong lĩnh vực nhân quyền, hay các thiết chế nhân quyền trên thế giới cần có nghĩa vụ hợp tác quốc tế với nhau trên cơ sở luật pháp quốc tế, mà cụ thể hơn là các nguyên tắc của Luật nhân quyền quốc tế. Do đó, tăng cường hợp tác quốc tế, chia sẻ kinh nghiệm đóng vai trò rất quan trọng để đảm bảo rằng các công nghệ sinh học được sử dụng để phát huy tiềm năng của chúng đối với việc nâng cao sự thụ hưởng và giảm thiểu rủi ro đối các quyền con người được ghi nhận trong khuôn khổ pháp luật quốc tế và tại mỗi quốc gia.
Thứ nhất, các quốc gia cần tăng cường hợp tác với các cơ chế của Liên Hợp quốc về quyền con người
Mỗi quốc gia, vùng lãnh thổ cần luôn chủ động, tích cực tham gia có trách nhiệm tại Hội đồng Nhân quyền, Ủy ban Xã hội, Nhân đạo và Văn hóa của Đại hội đồng, Hội đồng Kinh tế – Xã hội và các diễn đàn khác của Liên Hợp quốc nhằm mục tiêu chung là bảo đảm và thúc đẩy quyền con người và những nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế về nhân quyền. Tại các diễn đàn Liên Hợp quốc, cần đề cao quan điểm và lập trường tích cực; thúc đẩy cách tiếp cận cân bằng trong vấn đề quyền con người. Bên cạnh đó, các quốc gia thành viên nên tích cực tham gia đóng góp và là đồng tác giả các dự thảo nghị quyết về thúc đẩy việc thực hiện các quyền con người. Không chỉ vậy, mỗi quốc gia thành viên cần coi trọng hợp tác với Cơ chế Rà soát Định kỳ Phổ quát (UPR) của Hội đồng Nhân quyền, coi đây là cơ chế hiệu quả để chia sẻ thông tin, kinh nghiệm, tăng cường hiểu biết lẫn nhau giữa các nước, qua đó thúc đẩy và bảo đảm tốt hơn các quyền con người. Nghiêm túc chấp nhận các khuyến nghị tại phiên rà soát UPR và tích cực triển khai thực hiện toàn diện các khuyến nghị đã chấp thuận.
Thứ hai, thúc đẩy hợp tác khu vực, đa phương và hợp tác với các tổ chức phi chính phủ về quyền con người
Bởi các thế mạnh của cơ chế khu vực, cụ thể như: dễ đạt được đồng thuận hơn khi thiết lập, sửa đổi, bổ sung và thực hiện, vì các quốc gia trong khu vực thường có các tiêu chí chung gần nhau nhiều hơn về kinh tế, văn hóa và truyền thống lịch sử, phạm vi hẹp hơn về địa lý, đã tỏ ra dễ tiếp cận hơn với công chúng, với xã hội dân sự đối với các cơ chế của Liên Hợp quốc. Do vậy, các quốc gia cần tích cực tham gia vào quá trình hình thành và hoạt động của cơ chế khu vực qua đó đóng góp xây dựng tiếng nói và cách tiếp cận chung về hợp tác nhân quyền ở cấp khu vực.
Bên cạnh đó, các quốc gia cần coi trọng và đánh giá cao đối thoại về quyền con người ở phương diện đa phương. Các cơ chế đối thoại diễn ra trên tinh thần thẳng thắn, cởi mở, xây dựng, có nội dung thực chất và đã phát huy kết quả tích cực, thu hẹp khác biệt, không chỉ góp phần tăng cường hiểu biết và thúc đẩy quan hệ giữa các quốc gia, mà còn là kênh trao đổi các kinh nghiệm tốt nhất của mỗi bên và giải quyết được nhiều vấn đề quyền con người mà các bên cùng quan tâm. Từ đó nhận được nhiều sự hỗ trợ hiệu quả, thiết thực của các quốc gia, đối tác qua hợp tác kỹ thuật về quyền con người và trong nhiều lĩnh vực liên quan như cải cách tư pháp, xóa đói giảm nghèo, y tế, giáo dục, khoa học công nghệ, hỗ trợ các nhóm dễ bị tổn thương và nhiều lĩnh vực khác.
Đặc biệt hơn, vai trò của các tổ chức phi chính phủ (trong và ngoài nước) ngày càng được nâng cao trong cộng đồng quốc tế khi hoạt động của chúng góp phần thúc đẩy sự phát triển bền vững, bảo đảm quyền con người, xây dựng quan hệ thương mại bình đẳng giữa các nước trên thế giới. Các tổ chức phi chính phủ nước ngoài đóng vai trò quan trọng trong việc: hỗ trợ tài chính, hỗ trợ kỹ thuật và hỗ trợ phương pháp, hỗ trợ giải quyết các vấn đề ở cộng đồng; chia sẻ kinh nghiệm, phương pháp làm cũng như cách thức xây dựng các chương trình, dự án quốc gia, chính sách và khung pháp lý cho những vấn đề liên quan đến quyền con người; thúc đẩy ngoại giao nhân dân, đóng vai trò cầu nối thông tin giữa các quốc gia. Chính vì các vai trò quan trọng đó, mà mỗi quốc gia cần có các chính sách, thể chế để tiếp tục tăng cường công tác vận động hợp tác với các tổ chức phi chính phủ phục vụ phát triển đất nước; chủ động đề xuất đổi mới phương pháp và hình thức hợp tác với các tổ chức phi chính phủ, xây dựng chương trình quốc gia về hợp tác với các tổ chức phi chính phủ.
Thứ ba, tăng cường hợp tác quốc tế trong việc chia sẻ lợi ích của công nghệ sinh học nhằm nâng cao sự thụ hưởng quyền con người
Các quốc gia nên thúc đẩy phổ biến quốc tế thông tin về các lợi ích của công nghệ sinh học và khuyến khích dòng chảy tự do và chia sẻ kiến thức về lĩnh vực này. Trong khuôn khổ hợp tác quốc tế, các quốc gia cần thúc đẩy hợp tác về công nghệ sinh học và tham gia vào các thỏa thuận song phương và đa phương để tạo điều kiện cho các nước đang phát triển nâng cao năng lực tham gia tiếp thu và chia sẻ kiến thức khoa học, bí quyết liên quan và lợi ích của chúng.
Bên cạnh đó, đẩy mạnh hợp tác quốc tế trong lĩnh vực phát triển nhân lực công nghệ sinh học, ưu tiên hợp tác đào tạo sinh viên ngành kỹ thuật công nghệ sinh học tại các trường đại học, cao đẳng, dạy nghề tiên tiến khu vực và thế giới; thu hút, sử dụng có hiệu quả người có trình độ cao, lực lượng trẻ tài năng hợp tác nghiên cứu, giảng dạy, ươm tạo công nghệ sinh học, ươm tạo và phát triển doanh nghiệp công nghệ sinh học tại mỗi quốc gia. Đồng thời, các quốc gia đang phát triển cần tăng cường thực hiện hội nhập quốc tế về khoa học và công nghệ, đặc biệt là lĩnh vực công nghệ sinh học nhằm đẩy mạnh hoạt động tìm kiếm, chuyển giao công nghệ tiên tiến nhằm nâng cao năng lực làm chủ và sáng tạo công nghệ sinh học của tổ chức nghiên cứu, đào tạo, doanh nghiệp trong nước.
Hơn nữa, cần tiếp tục triển khai xây dựng các trung tâm kết nối và chuyển giao công nghệ quốc gia, nơi có thể hội tụ cả ba bên: nhà quản lý, nhà khoa học và nhà sản xuất (doanh nghiệp), đặc biệt là áp dụng trong lĩnh vực công nghiệp chế biến thực phẩm, y dược, năng lượng và môi trường. Vì vậy, các nhà quản lý cần đưa vấn đề này vào danh mục công việc ưu tiên, nhằm đẩy mạnh sự phát triển của ngành công nghệ nói chung và công nghệ sinh học nói riêng.
Thứ tư, nâng cao vai trò của UNESCO trong việc chia sẻ tri thức và hợp tác chặt chẽ với các tổ chức quốc tế khác hoạt động trong lĩnh vực đạo đức sinh học
UNESCO là tổ chức soạn thảo và xác lập các quy chuẩn như xây dựng những thỏa thuận chung về đạo đức, chuẩn mực và tri thức cơ sở trong các lĩnh vực thuộc thẩm quyền. Chức năng này đã đưa UNESCO tham gia vào những tiến trình trao đổi tri thức liên ngành phức tạp và vào quá trình trao đổi với các chuyên gia và các quốc gia thành viên. Từ đó, UNESCO đã đi đầu trong chương trình thiết lập các tiêu chuẩn pháp lý và đạo đức sinh học, tạo dựng năng lực cho các quốc gia thành viên, giúp các quốc gia xây dựng năng lực về thể chế, nguồn nhân lực trong các lĩnh vực giáo dục, khoa học, văn hóa, truyền thông và thông tin.
Do đó, cần nâng cao hơn nữa vai trò của UNESCO trong việc chia sẻ tri thức và hợp tác chặt chẽ với các tổ chức quốc tế khác hoạt động trong lĩnh vực đạo đức sinh học. Bằng việc xây dựng nhiều dự án kết hợp với các tổ chức chẳng hạn như OECD (Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế) và ISO (Tổ chức tiêu chuẩn hóa quốc tế), trong việc xây dựng khuôn khổ đạo đức toàn diện cho công nghệ sinh học. Bên cạnh đó, cần phối hợp với các cơ chế giám sát nhân quyền quốc tế, bao gồm các Uỷ quan công ước và các Thủ tục đặc biệt của Hội đồng nhân quyền về các vấn đề đạo đức sinh học. Tăng cường chia sẻ các kinh nghiệm thành công về quản lý và kiểm soát đạo đức sinh học thông qua các buổi tọa đàm, hội thảo, hội nghị thường niên và trực tuyến trên các phương tiện điện tử, cổng thông tin của UNESCO.
Thứ năm, tăng cường đối thoại đa chiều, đa ngành trong chính sách phát triển và kiểm soát công nghệ sinh học
Sự tham gia của cộng đồng trong việc xây dựng chính sách phát triển và kiểm soát công nghệ sinh học cần được tăng cường, củng cố nhu cầu tham gia của các nhóm xã hội dân sự, bao gồm cả những nhóm quan tâm đến môi trường, sức khỏe, đạo đức và an toàn sinh học. Cần nêu bật nhu cầu khuyến khích phát triển thêm các mô hình cho cuộc tranh luận công khai trong chính sách công nghệ sinh học. Năng lực của các quốc gia thành viên đối với sự tham gia của cộng đồng cũng cần được tăng cường, đặc biệt là ở các quốc gia đang phát triển. UNESCO nên tham gia vào các diễn đàn công khai đang tồn tại về công nghệ sinh học để đảm bảo một cuộc đối thoại giữa các ngành, giữa các ý kiến và tạo thế cân bằng. Các cuộc đối thoại về chính sách công nghệ sinh học cũng cần được thúc đẩy ở cấp khu vực, có tính đến sự phát triển và mối quan tâm xã hội khác nhau của từng khu vực.