Vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong TTDS qua từng thời kỳ. Viện công tố (tiền thân của Viện kiểm sát nhân dân) trong tố tụng dân sự giai đoạn 1945 đến nay.
Mục lục bài viết
- 1 1. Viện công tố (tiền thân của Viện kiểm sát nhân dân) trong tố tụng dân sự giai đoạn 1945 đến 1959:
- 2 2. Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng dân sự giai đoạn 1960 đến 1988:
- 3 3. Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng dân sự giai đoạn 1989 đến 2004:
- 4 4. Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng dân sự giai đoạn 2005 đến 2015:
- 5 5. Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng dân sự giai đoạn 2015 đến nay:
1. Viện công tố (tiền thân của Viện kiểm sát nhân dân) trong tố tụng dân sự giai đoạn 1945 đến 1959:
Ngày 02 tháng 9 năm 1945, tại quảng trường ba Đình, Hà Nội, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn độc lập, khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa – nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam châu Á. Trong bối cảnh muôn vàn khó khăn của chính quyền non trẻ, Chính phủ lâm thời đã quan tâm đến việc hoàn thiện thể chế, thiết lập các thiết chế nhằm kiện toàn bộ máy tổ chức của nhà nước. Cùng với việc kiện toàn bộ máy nhà nước, hệ thống Tòa án của chính quyền nhân dân đã từng bước được tổ chức hoạt động trên phạm vi cả nước. Ngày 13/9/1945, thay mặt Chính phủ lâm thời Việt Nam dân chủ cộng hòa, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ban hành Sắc lệnh số 33c về việc thành lập Tòa án Quân sự ở 3 miền Bắc, Trung, Nam nhằm mục đích “xét xử tất cả các người nào phạm vào một việc gì có phương hại đến nền độc lập của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, trừ những người phạm tội là những binh sĩ thuộc thẩm quyền xét xử của nhà binh theo quân luật” [Sắc lệnh]. Sắc lệnh này là vũ khí sắc bén để trấn áp và trừng trị những thế lực thù địch, bảo vệ thành quả cách mạng. Đây cũng là cơ sở pháp lý đầu tiên của Nhà nước dân chủ nhân dân đánh dấu sự ra đời của hệ thống Tòa án, đồng thời cũng là văn bản pháp lý đầu tiên quy định về tổ chức và hoạt động của cơ quan Công tố trong bộ máy nhà nước ta.
Trong bối cảnh vừa giành được độc lập, việc thiết lập các cơ quan trong bộ máy nhà nước là yêu cầu rất cấp thiết của chính quyền cách mạng dân chủ nhân dân, đặc biệt là các cơ quan có nhiệm vụ bảo vệ pháp luật, bảo đảm trật tự xã hội. Bên cạnh việc thiết lập hệ thống Tòa án quân sự và Tòa án binh, ngày 24 tháng 01 năm 1946, Chủ tịch Chính phủ lâm thời ban hành sắc lệnh số 13 về việc tổ chức các Tòa án và các ngạch Thẩm phán để xét xử các tội phạm và vi phạm pháp luật nhằm bảo vệ Nhà nước và bảo vệ nhân dân. Theo đó, cơ quan công tố được tổ chức trong Tòa án đệ nhị cấp và Tòa thượng thẩm, tạo thành một đoàn thể độc lập với các Thẩm phán xét xử. Trong thời kỳ này, mặc dù cơ quan Công tố được tổ chức trong hệ thống Tòa án thường nhưng hoạt động của cơ quan Công tố hoàn toàn độc lập với hoạt động xử án của Tòa án. Theo Sắc lệnh 51 ngày 17 tháng 4 năm 1946, Công tố viên tham gia tố tụng dân sự dưới hình thức người thi hành quyền công tố (Điều 22) và khởi tố vụ án dân sự (Điều 41) [5]. Như vậy, trong thời kỳ này Viện công tố bước đầu được hình thành, nằm trong hệ thống Tòa án với chức năng kiểm sát tuân theo pháp luật và thực hành quyền công tố
2. Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng dân sự giai đoạn 1960 đến 1988:
Trong bối cảnh Cách mạng Việt Nam chuyển sang một hình thể mới. Nhân dân ta cần ra sức củng cố miền Bắc, đưa miền Bắc tiến lên chủ nghĩa xã hội và tiếp tục đấu tranh để hòa bình thống nhất nước nhà, hoàn thành nhiệm vụ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước. Quốc hội xác định cần sửa đổi Hiến pháp năm 1946 cho phù hợp với tình hình và nhiệm vụ trong giai đoạn mới của cách mạng. Hiến pháp năm 1959 lần đầu tiên ghi nhận chế định Viện kiểm sát nhân dân, theo đó Viện kiểm sát nhân dân tối cao có chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật của các cơ quan thuộc Hội đồng Chính phủ, cơ quan Nhà nước địa phương, các nhân viên cơ quan Nhà nước và công dân”. Các Viện kiểm sát nhân dân địa phương và Viện kiểm sát quân sự có quyền trong phạm vi do luật định. Viện kiểm sát nhân dân các cấp chịu sự lãnh đạo của Viện kiểm sát nhân dân cấp trên và sự lãnh đạo thống nhất của Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Viện kiểm sát nhân dân tối cao chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Ủy ban Thường vụ Quốc hội.
Như vậy, theo Hiến pháp năm 1959, Viện kiểm sát nhân dân có một chức năng hoàn toàn mới là kiểm sát việc tuân theo pháp luật của các cơ quan thuộc Hội đồng chính phủ, cơ quan Nhà nước địa phương, các nhân viên cơ quan Nhà nước và công dân, mở ra một trang mới trong sự phát triển hệ thống tư pháp của nước ta nói chung và Viện kiểm sát nhân dân nói riêng.
Cần khẳng định rằng, sự ra đời của Viện kiểm sát nhân dân là một yêu cầu khách quan của việc chuyển giai đoạn cách mạng ở nước ta, giai đoạn vừa tiếp tục cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở Miền Nam, vừa tiến hành cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa ở Miền Bắc.
Nhu cầu của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa đòi hỏi pháp luật phải được chấp hành một cách nghiêm chỉnh và thống nhất, đòi hỏi sự nhất trí về mục đích và hành động trong nhân dân, giữa nhân dân và nhà nước, cũng như giữa các ngành hoạt động nhà nước với nhau. Nếu không đạt được sự thống nhất trong việc chấp hành pháp luật thì sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội sẽ gặp nhiều khó khăn. Vì lẽ trên, phải tổ chức ra Viện kiểm sát nhân dân để kiểm sát việc tuân theo pháp luật nhằm giữ vững pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo đảm cho pháp luật được chấp hành một cách nghiêm chỉnh .
Trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản về tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân được quy định trong Hiến pháp, ngày 26/7/1960 Nhà nước ta công bố Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân, Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 1960 gồm 6 chương, 25 Điều, quy định các vấn đề về chức năng, nhiệm vụ của Viện kiểm sát nhân dân, các công tác thực hiện chức năng, hệ thống Viện kiểm sát nhân dân các cấp, các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân, nhiệm vụ và quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân khi thực hiện các công tác kiểm sát cụ thể.
Về chức năng của Viện kiểm sát nhân dân, theo quy định của Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 1960, Viện kiểm sát nhân dân có chức năng:
Kiểm sát việc tuân theo pháp luật, làm cho pháp luật được chấp hành một cách nghiêm chỉnh và thống nhất, pháp chế dân chủ nhân dân được giữ vững. Mục đích của việc kiểm sát là bảo vệ chế độ dân chủ nhân dân, trật tự xã hội, tài sản công cộng và những quyền lợi hợp pháp của công dân, góp phần đảm bảo cho công cuộc xây dựng Chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và sự nghiệp đấu tranh nhằm thực hiện thống nhất nước nhà được tiến hành thắng lợi.
Theo đó, Viện kiểm sát nhân dân có 6 công tác thực hiện chức năng bao gồm:
(1) Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong các Nghị quyết, Quyết định, Thông tư, Chỉ thị và biện pháp của các Cơ quan thuộc Hội đồng Chính phủ và Cơ quan Nhà nước địa phương; Kiểm sát việc tuân theo pháp luật của nhân viên Cơ quan Nhà nước và công dân; (2) Điều tra những việc phạm pháp về hình sự và truy tố trước tòa án nhân dân những người phạm pháp về hình sự; (3) Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc điều tra của Cơ quan Công an và của các Cơ quan điều tra khác; (4) Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc xét xử của các Tòa án nhân dân và trong việc chấp hành các bản án; (5) Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc giam giữ của các trại giam; (6) Khởi tố hoặc tham gia tố tụng trong những vụ án dân sự quan trọng liên quan đến lợi ích của Nhà nước và của nhân dân. Với những nhiệm vụ và quyền hạn như vậy, công tác kiểm sát bao gồm hai công tác chủ yếu là công tác kiểm sát chung và công tác công tố.
Quy định của Luật tổ chức Viện KSND năm 1960 là căn cứ pháp lý quan trọng tạo điều kiện để từng bước hình thành hệ thống cơ quan Viện kiểm sát nhân dân trong thực tiễn. Nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát trong thời kỳ này đã thể hiện quan điểm đổi mới về tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát, xuất phát từ tính chất của Nhà nước dân chủ nhân dân trong giai đoạn cách mạng mới. Viện kiểm sát nhân dân là cơ quan nhà nước tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tập trung thống nhất.
Ngay sau khi được thành lập, do tầm quan trọng của công tác kiểm sát, góp phần bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa, phát huy quyền dân chủ của nhân dân, trong giai đoạn này, Viện kiểm sát nhân dân luôn nhận được sự quan tâm lãnh đạo của Bộ Chính trị Ban chấp hành Trung ương và các đồng chí lãnh đạo cao nhất của Đảng và Nhà nước. Ngày 01/2/1963, Bộ Chính trị Ban chấp hành Trung ương Đảng đã ra Nghị quyết số 68-NQ/TW về công tác kiểm sát, trong đó khẳng định tổ chức Viện kiểm sát nhân dân là một trong những công cụ chuyên chính của Nhà nước dân chủ nhân dân… ngành Kiểm sát nhân dân có nhiệm vụ kiểm sát việc tuân theo pháp luật, làm cho pháp luật được chấp hành một cách nghiêm chỉnh và thống nhất, pháp chế xã hội chủ nghĩa được tôn trọng, do đó mà góp phần vào việc tăng cường chuyên chính đối với bọn phản cách mạng, bảo đảm các quyền dân chủ của nhân dân được tôn trọng, đồng thời cũng góp phần vào việc tăng cường kỷ luật xã hội trong quần chúng nhân dân.
Tại hội nghị tổng kết công tác kiểm sát tháng 3/1967, đồng chí Lê Duẩn – Bí thư thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng, nhấn mạnh:
Nhiệm vụ của ngành Kiểm sát trước hết là kiểm tra các Cơ quan chính quyền và những người có quyền có làm đúng quyền và lạm quyền không, có vi phạm pháp luật không, có vi phạm quyền dân chủ của nhân dân không và kiểm sát xem nhân dân có phạm pháp không, nhưng phải hiểu phạm pháp đó như thế nào….
Nghiên cứu thực tiễn hoạt động trong giai đoạn này cho thấy. Trong công tác kiểm sát xét xử dân sự và hôn nhân gia đình, cả 3 cấp trong ngành kiểm sát nhân dân đã có những khắc phục những nhận thức không đúng, từ chỗ chỉ coi trọng những vụ án hôn nhân gia đình, những vụ án thuộc tài sản cá nhân; coi nhẹ những vụ án liên quan đến tài sản xã hội chủ nghĩa. Thông qua công tác kiểm sát xét xử đã phát hiện nhiều bản án, quyết định dân sự của Tòa án ở cả 3 cấp có những vi phạm về thủ tục tố tụng và nội dung xâm phạm đến quyền khởi kiện của đương sự trong một số loại việc như đòi nhà thuê, quyền lợi của đương sự trong các vụ án lao động… đã kịp thời kiến nghị với Tòa án nhân dân tối cao để uốn nắn, sửa chữa, đã được Tòa án chấp nhận.
Nhìn chung, cho đến năng 1989 trở về trước vai trò của VKSND trong tố tụng dân sự không được quy định trong các văn bản pháp luật nào khác ngoài Luật tổ chức VKSND. Trong giai đoạn này của VKSND đã có sự thay đổi quan trọng nhằm đáp ứng với yêu cầu mới và thực tiễn cách mạng Việt Nam.
3. Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng dân sự giai đoạn 1989 đến 2004:
Hiến pháp 1992 (sửa đổi 2001) và hai đạo luật tổ chức VKSND (1989, 1992) ra đời tiếp tục kế thừa và quy định mới cho chức năng của VKSND đáp ứng nhu cầu thay đổi của xã hội đặc biệt là quá trình cải cách tư pháp trong giai đoạn toàn Đảng toàn dân bước vào xây dựng nền kinh thế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Đây là thời kỳ đổi mới, trên cơ sở Hiến pháp và Luật tổ chức VKSND, là sự ra đời của Pháp lệnh trình tự giải quyết các vụ án dân sự (1989), Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế (1994), pháp lệnh thủ tục giải quyết tranh chấp lao động (1996) … Theo quy định của các văn bản pháp luật này, sự tham gia tố tụng của VKSND trong tố tụng dân sự được mở rộng. Cụ thể quy định tại Điều 17 Luật TCVKSND năm 1992:
Khi thực hiện công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ án dân sự và những việc khác do pháp luật quy định. Viện kiểm sát nhân dân có những nhiệm vụ và quyền hạn sau:
1. Kiểm sát việc lập hồ sơ vụ án, yêu cầu Tòa án nhân dân hoặc tự mình điều tra, xác minh những vấn đề cần làm sáng tỏ nhằm giải quyết đúng đắn vụ án;
2. Khởi tố những vụ án dân sự theo quy định của pháp luật, tham gia phiên tòa xét xử những vụ án mà viện kiểm sát nhân dân đã khởi tố hoặc kháng nghị đối với những vụ án khác. Viện kiểm sát nhân dân có thể tham gia bất cứ giai đoạn nào nếu thấy cần thiết; 3. Yêu cầu Tòa án cùng cấp áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời theo quy định của pháp luật; 4. Kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm, các bản án, quyết định của Tòa án nhân dân theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự.
Như vậy, theo quy định của Luật tổ chức VKSND năm 1992, đã xác định rõ hơn các hình thức tham gia tố tụng dân sự của VKSND đó là: khởi tố vụ kiện dân sự vì lợi ích chung; tham gia tố tụng đối với cá vụ án dân sự; kháng nghị những bản án, quyết định của Tòa án theo thủ tục phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm. Sau đó, Điều 1 Luật Tổ chức VKSND năm 2002 ngày 02/4/2002 quy định: “Viện kiểm sát nhân dân thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp theo quy định của Hiến pháp và pháp luật”. Quy định này nhằm tăng cường và tập trung chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp của VKSND, trong đó có hoạt động xét xử các vụ án dân sự, kinh tế và lao động.
Khác với quy định trong Luật tổ chức VKSND năm 1992, khoản 3 Điều 21 Luật tổ chức VKSND năm 2002 xác định VKSND có trách nhiệm kiểm sát việc giải quyết đối với tất cả các vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh tế, lao động và những việc khác theo quy định của pháp luật ở tất cả các giai đoạn tố tụng, tham gia tất cả các phiên tòa xét xử các vụ án này ở Tòa án các cấp và phát biểu quan điểm của VKSND về việc giải quyết vụ án. Quy định như vậy nhằm tăng cường kiểm sát các hoạt động tư pháp trong lĩnh vực dân sự, kinh tế, lao động và thể chế hóa quan điểm, chủ trương của Đảng về cải cách tư pháp.
4. Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng dân sự giai đoạn 2005 đến 2015:
Công cuộc cải cách tư pháp song song với tiến trình phát triển xã hội, những quy định về tố tụng dân sự mới phù hợp với sự tiến bộ xã hội thay đổi những quy định tố tụng dân sự trước, BLTTDS có hiệu lực thi hành ngày 01/01/2005. Trong đó, sự tham gia tố tụng của VKSND được quy định cụ thể tại Điều 21 BLTTDS:
Viện kiểm sát nhân dân kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự, thực hiện các quyền yêu cầu, kiến nghị, kháng nghị theo quy định của pháp luật nhằm bảo đảm việc giải quyết vụ việc dân sự kịp thời, đúng pháp luật. 2. Viện kiểm sát nhân dân tham gia phiên tòa đối với những vụ án do Tòa án thu thập chứng cứ mà đương sự có khiếu nại, các việc dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án, các vụ việc dân sự mà VKSND kháng nghị bản án, quyết định.
Về việc tham gia phiên tòa của VKSND:
Bên cạnh đó, hoạt động kiểm sát của VKSND còn được quy định tại Điều 38 BLTTDS 2004:
… quyết định nhập hoặc tách vụ án dân sự phải được gửi ngay cho Viện kiểm sát cùng cấp; Điều 85 BLTTDS 2004:
..trong trường hợp cần thiết, Viện kiểm sát có quyền yêu cầu đương sự, cá nhân, cơ quan, tổ chức cung cấp hồ sơ, tài liệu, vật chứng để bảo đảm cho việc thực hiện thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm, giám đốc thẩm và tái thẩm; Điều 104 BLTTDS 2004:
… Viện kiểm sát có quyền kiến nghị Chánh án Tòa án đang giải quyết vụ án về quyết định áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời….
Với các quy định pháp luật trên, tố tụng dân sự Việt Nam cho phép VKSND thực hiện chức năng kiểm sát dân sự trong phạm vi luật định.
Tuy nhiên, thực tiễn thi hành BLTTDS 2004 cho thấy các quy định của BLTTDS về sự tham gia tố tụng dân sự của VKSND trong tố tụng dân sự đã bộc lộ những hạn chế, bất cập, chưa tạo điều kiện cho VKSND thực hiện đầy đủ chức năng, nhiệm vụ của mình theo quy định của Hiến pháp và Luật Tổ chức VKSND. Do đó, BLTTDS 2004 đã được sửa đổi bổ sung một số điều, có hiệu lực thi hành từ 01/01/2012 có những thay đổi quan trọng về sự tham gia của VKSND trong tố tụng dân sự nhằm đáp ứng những yêu cầu thực tiễn khi đó. Cụ thể, tại Điều 21 Luật sửa đổi bổ sung theo hướng mở rộng phạm vi các trường hợp VKSND tham gia phiên tòa sơ thẩm, VKSND không chỉ tham gia phiên tòa sơ thẩm đối với những vụ án mà đương sự có khiếu nại về biện pháp thu thập chứng cứ của Tòa án và VKS còn tham gia:
… các phiên tòa sơ thẩm đối với những vụ án do Tòa án tiến hành thu thập chứng cứ hoặc đối tượng tranh chấp là tài sản công, lợi ích công cộng, quyền sử dụng đất, nhà ở hoặc một bên đương sự là người chưa thành niên, người có nhược điểm về thể chất, tâm thần.
Ngoài ra, Điều 85 BLTTDS năm 2004 sửa đổi bổ sung năm 2011 cũng được sửa đổi bổ sung theo hướng quy định:
… Viện kiểm sát có quyền yêu cầu đương sự, cá nhân, cơ quan, tổ chức cung cấp hồ sơ, tài liệu, vật chứng để đảm bảo cho việc thực hiện thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm, giám đốc thẩm và tái thẩm; Điều 170 quy định:
… trong thời hạn bảy ngày làm việc, kể từ ngày nhận được quyết định trả lời đơn khiếu nại, kiến nghị về việc trả lại đơn khởi kiện của Chánh án Tòa án, người khởi kiện có quyền khiếu nại, Viện kiểm sát có quyền kiến nghị với Chánh án Tòa án nhân dân cấp trên trực tiếp xem xét, giải quyết .
Có thể thấy, so với Viện công tố các nước, nhiệm vụ và quyền hạn của VKSND khi tham gia tố tụng dân sự ở Việt Nam được quy định rộng hơn nhiều. Cụ thể ngoài quyền tham gia tố tụng như Viện công tố các nước, VKSND còn được trao thêm các thẩm quyền đặc thù của một cơ quan thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật của TAND và những người tham gia tố tụng, quyền kháng nghị tất cả các bản án, quyết định dân sự của Tòa án theo thủ tục phúc thẩm, giám đốc thẩm hoặc tái thẩm.
5. Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng dân sự giai đoạn 2015 đến nay:
Ngày 28 tháng 11 năm 2013, tại kỳ họp thức 6, Quốc hội khóa XIII, Hiến pháp 2013 đã ra đời là sự kế thừa có chọn lọc từ các bản Hiến pháp trước đây. Hiến pháp 2013 phân định rõ ràng hơn về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan trong bộ máy nhà nước. Trong đó, VKSND vẫn giữ hai chức năng cơ bản là thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp. Viện kiểm sát nhân dân có nhiệm vụ bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, góp phần bảo đảm pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất.
Từ quy định trên cho thấy, về mặt nguyên tắc, so với Luật Tổ chức VKSND 2002 và các văn bản pháp luật tố tụng trước đây, chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự của VKSND theo Luật TCVKSND 2014 và BLTTDS 2015 tiếp tục được khẳng định, bên cạnh đó Luật có nhiều sửa đổi, bổ sung như Viện trưởng VKS và KSV là người tiến hành tố tụng dân sự; đồng thời, bổ sung quy định Kiểm tra viên cũng là người tiến hành tố tụng và bổ sung 01 điều luật (Điều 59) quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của Kiểm tra viên để đảm bảo phù hợp với Luật TCVKSND năm 2014; phạm vi tham gia phiên tòa của VKSND mở rộng hơn (Điều 21, 232, 296 và 374); việc phát biểu ý kiến của VKSND tại phiên tòa, phiên họp sơ thẩm giải quyết vụ việc dân sự quy định tại Điều 262 và Điều 369 cũng đổi mới, Kiểm sát viên không chỉ phát biểu về việc chấp hành pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử như trước đây mà còn phát biểu về việc giải quyết vụ án; thẩm quyền xác minh, thu thập tài liệu, chứng cứ của Viện kiểm sát, bên cạnh việc tiếp tục kế thừa quy định của BLTTDS 2004 thì còn bổ sung quy định KSV khi được Viện trưởng Viện kiểm sát nhân công thực hiện kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự có nhiệm vụ, quyền hạn “Yêu cầu Tòa án xác minh, thu thập chứng cứ trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự theo quy định của Bộ luật này; thu thập tài liệu, chứng cứ theo quy định tại khoản 6 Điều 97 của Bộ luật này” và sửa đổi quy định về thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm, theo đó: Bỏ thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm huyện của Chánh án Tòa án nhân dân cấp tỉnh và Viện trưởng VKSND cấp tỉnh đối với bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án nhân dân cấp huyện bổ sung quyền kháng nghị cho Chánh án Tòa án nhân dân cấp cao, Viện trưởng VKSND cấp cao,…
Với các quy định trên đây, luật hiện hành vẫn tiếp tục khẳng định chức năng và địa vị pháp lý của VKSND là cơ quan tiến hành tố tụng, thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự, vì vậy, tất cả các quyết định mang tính chất giải quyết, xử lý vụ việc dân sự của cơ quan xét xử phải được gửi cho Viện kiểm sát để thực hiện chức năng kiểm sát trong một thời hạn nghiêm ngặt. Một trong những phương thức hoạt động chủ yếu để thực hiện chức năng nói trên là phải tập trung kiểm sát các bản án, quyết định giải quyết, xử lý vụ việc dân sự của Tòa án để góp phần đảm bảo các quyết định này có căn cứ và hợp pháp. Trong trường hợp phát hiện có vi phạm pháp luật, VKS được thực hiện quyền yêu cầu, quyền kiến nghị và kháng nghị nhằm bảo đảm việc giải quyết vụ việc dân sự kịp thời, đúng pháp luật.
Ngày 24 tháng 11 năm 2014, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã thông qua Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân với VI chương, 101 điều thể chế hóa các quan điểm của Đảng về cải cách tư pháp và Hiến pháp năm 2013. Đây là cơ sở pháp lý quan trọng để Viện kiểm sát nhân dân được tổ chức, hoạt động hiệu lực, hiệu quả.