Tự ý thay đổi hình dáng, kiểu dáng của phương tiện giao thông là hành vi vi phạm quy định của pháp luật. Pháp luật quy định mức phạt tự ý thay đổi hình dáng, kiểu dáng xe đạp điện như thế nào?
Mục lục bài viết
1. Mức phạt tự ý thay đổi hình dáng, kiểu dáng xe đạp điện:
1.1. Những hành vi được xem là thay đổi hình dáng, kiểu dáng xe đạp điện:
Xe đạp điện là là xe thô sơ hai bánh có lắp động cơ, vận tốc thiết kế lớn nhất là không lớn hơn 25 km/h và khi tắt máy thì đạp xe đi được.
Khoản 2 Điều 55 Luật Giao thông đường bộ 2008 quy định chủ phương tiện không được tự thay đổi kết cấu, tổng thành, hệ thống của xe không đúng với các thiết kế của nhà chế tạo hoặc thiết kế cải tạo đã được cơ quan chức năng có thẩm quyền phê duyệt. Như vậy, theo pháp luật giao thông thì chủ các loại phương tiện (trong đó có bao gồm cả xe đạp điện) không được tự thay đổi kết cấu của xe, làm cho thay đổi thiết kế ban đầu của xe đã được cơ quan chức năng của Nhà nước có thẩm quyền phê duyệt trước đó bởi tính không an toàn của quá trình tự thay đổi hình dáng, kết cấu xe.
Những hành vi được xem là thay đổi hình dáng, kiểu dáng xe đạp điện bao gồm có:
– Cắt, hàn, đục lại số khung, số máy; đưa phương tiện đã bị cắt, hàn, đục lại số khung, số máy trái quy định tham gia giao thông;
– Thay đổi khung, máy, hình dáng, kích thước, đặc tính của xe.
1.2. Mức phạt tự ý thay đổi hình dáng, kiểu dáng xe đạp điện:
Căn cứ Điều 30
– Phạt tiền từ 100.000 đồng đến 200.000 đồng đối với cá nhân và từ 200.000 đồng đến 400.000 đồng đối với tổ chức là chủ của phương tiện xe mô tô, xe gắn máy và các loại xe tương tự xe mô tô thực hiện các hành vi tự ý thay đổi nhãn hiệu, màu sơn của xe không đúng với Giấy đăng ký xe.
– Phạt tiền từ 300.000 đồng đến 400.000 đồng đối với cá nhân và từ 600.000 đồng đến 800.000 đồng đối với tổ chức là chủ của phương tiện xe ô tô, máy kéo, xe máy chuyên dùng và các loại xe tương tự xe ô tô thực hiện hành vi lắp kính chắn gió, kính cửa của xe không phải là loại kính an toàn;
– Phạt tiền từ 800.000 đồng đến 2.000.000 đồng đối với cá nhân và từ 1.600.000 đồng đến 4.000.000 đồng đối với tổ chức là chủ của phương tiện xe mô tô, xe gắn máy và các loại xe tương tự xe mô tô thực hiện một trong những hành vi vi phạm sau đây:
+ Tự ý cắt, hàn, đục lại số khung, số máy; đưa phương tiện đã bị cắt, hàn, đục lại số khung, số máy trái với quy định tham gia giao thông;
+ Tự ý thay đổi khung, máy, hình dáng, kích thước, đặc tính của xe.
Theo quy định trên, pháp luật về xử phạt vi phạm giao thông đường bộ chỉ quy định về phạt hành chính đối với các hành vi tự ý thay đổi hình dáng, kiểu dáng của xe đối với xe mô tô, xe gắn máy và các loại xe tương tự xe mô tô; xe ô tô, máy kéo, xe máy chuyên dùng và các loại xe tương tự xe ô tô và không có quy định xử phạt hành chính đối với các hành vi tự ý thay đổi hình dáng, kiểu dáng của xe thô sơ (xe đạp điện).
Như vậy, theo quy định pháp luật hiện hành thì việc thay đổi hình dáng, kiểu dáng xe đạp điện sẽ không bị xử phạt vi phạm hành chính.
2. Xe đạp điện có phải đăng ký xe và cấp biển số:
Khoản 3 Điều 53 Luật Giao thông đường bộ 2008 quy định các xe cơ giới phải đăng ký và gắn biển số do cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp.
Thêm nữa, căn cứ Điều 1 Thông tư
Khoản 18 Điều 3 Luật Giao thông đường bộ 2008 quy định xe cơ giới gồm:
– Xe ô tô;
– Máy kéo;
– Xe rơ moóc hoặc sơ mi rơ moóc được kéo bởi xe ô tô, máy kéo;
– Xe mô tô hai bánh;
– Xe mô tô ba bánh;
– Xe gắn máy (kể cả xe máy điện) và các loại xe tương tự.
Theo đó, xe đạp điện không phải là xe cơ giới nên không phải thực hiện cấp đăng ký xe và biển số.
3. Quy định khi tham gia giao thông bằng xe đạp điện:
Khoản 5 Điều 4 Luật giao thông đường bộ năm 2008 quy định người tham gia giao thông phải có ý thức tự giác, phải nghiêm chỉnh chấp hành quy tắc giao thông, giữ gìn an toàn cho mình và cho người khác. Chủ của phương tiện giao thông và người điều khiển phương tiện sẽ phải tự chịu trách nhiệm trước pháp luật về việc bảo đảm an toàn của phương tiện tham gia giao thông đường bộ. Theo đó, người điều khiển phương tiện là xe đạp điện khi tham gia giao thông đường bộ phải:
– Có ý thức tự giác chấp hành quy tắc giao thông;
– Nghiêm chỉnh chấp hành quy tắc giao thông;
– Giữ gìn an toàn cho mình và cho người khác;
– Chịu trách nhiệm trước pháp luật về việc bảo đảm an toàn của phương tiện tham gia giao thông đường bộ.
Thêm nữa, khi tham gia giao thông đường bộ, người điều khiển xe đạp điện:
– Chỉ được chở một người, trừ trường hợp chở thêm một trẻ em dưới 7 tuổi thì được chở tối đa hai người.
– Không được thực hiện các hành vi sau đây:
+ Đi xe dàn hàng ngang;
+ Đi xe đạp điện vào phần đường dành cho người đi bộ và phương tiện khác;
+ Sử dụng ô, điện thoại di động, thiết bị âm thanh, trừ thiết bị trợ thính;
+ Sử dụng xe đạp điện để kéo, đẩy xe khác, vật khác, mang, vác và chở vật cồng kềnh;
+ Buông cả hai tay hoặc đi xe đạp điện bằng một bánh đối với xe hai bánh;
+ Hành vi khác gây mất trật tự, an toàn giao thông.
– Phải đội mũ bảo hiểm có cài quai đúng quy cách;
– Phải cho xe đi hàng một, nơi có phần đường dành cho xe thô sơ thì người điều khiển xe đạp điện phải đi đúng phần đường quy định;
– Khi đi ban đêm phải có báo hiệu ở phía trước và phía sau xe;
– Hàng hóa xếp trên xe đạp điện phải bảo đảm an toàn, không gây cản trở giao thông và che khuất tầm nhìn của người điều khiển.
Tại Điều 8
– Người điều khiển xe đạp điện có những hành vi sau đây bị phạt tiền từ 80.000 đồng đến 100.000 đồng:
+ Không đi bên phải theo chiều đi của mình, đi không đúng phần đường quy định;
+ Dừng xe đột ngột; chuyển hướng không báo hiệu trước;
+ Không chấp hành hiệu lệnh hoặc chỉ dẫn của biển báo hiệu, vạch kẻ đường,
+ Vượt bên phải trong các trường hợp không được phép;
+ Dừng xe, đỗ xe trên phần đường xe chạy ở đoạn đường ngoài đô thị nơi có lề đường;
+ Chạy trong hầm đường bộ không có đèn hoặc vật phát sáng báo hiệu;
+ Dừng xe, đỗ xe trong hầm đường bộ không đúng nơi quy định;
+ Quay đầu xe trong hầm đường bộ;
+ Điều khiển xe đạp điện đi dàn hàng ngang từ 03 xe trở lên;
+ Người điều khiển xe đạp điện sử dụng ô (dù), điện thoại di động; chở người ngồi trên xe đạp điện sử dụng ô (dù);
+ Điều khiển xe đạp điện đi ban đêm không có báo hiệu bằng đèn hoặc vật phản quang;
+ Để xe đạp điện ở lòng đường đô thị, hè phố trái quy định của pháp luật;
+ Đỗ xe đạp điện ở lòng đường đô thị gây cản trở giao thông;
+ Không tuân thủ các quy định về dừng xe, đỗ xe tại nơi đường bộ giao nhau cùng mức với đường sắt
+ Không nhường đường cho xe đi trên đường ưu tiên, đường chính từ bất kỳ hướng nào tới tại nơi đường giao nhau;
+ Xe đạp điện chở quá số người quy định, trừ trường hợp chở người bệnh đi cấp cứu;
+ Điều khiển xe đạp điện trên đường mà trong máu hoặc hơi thở có nồng độ cồn nhưng chưa có vượt quá 50 miligam/100 mililít máu hoặc chưa vượt quá 0,25 miligam/1 lít khí thở.
– Người điều khiển xe đạp điện có những hành vi sau đây bị phạt tiền từ 100.000 đồng đến 200.000 đồng:
+ Điều khiển xe đạp điện buông cả hai tay; chuyển hướng đột ngột trước đầu xe cơ giới đang chạy; dùng chân điều khiển xe đạp điện;
+ Không chấp hành hiệu lệnh, chỉ dẫn của người điều khiển giao thông hoặc người kiểm soát giao thông;
+ Người đang điều khiển xe đạp điện hoặc chở người ngồi trên xe đạp điện bám, kéo, đẩy xe khác, vật khác, mang vác vật cồng kềnh; điều khiển xe đạp điện kéo theo xe khác, vật khác;
+ Không nhường đường cho xe xin vượt khi có đủ điều kiện an toàn hoặc gây ra cản trở đối với xe cơ giới xin vượt, gây cản trở xe ưu tiên;
+ Không chấp hành hiệu lệnh của đèn tín hiệu giao thông.
– Người điều khiển xe đạp điện có những hành vi sau đây bị phạt tiền từ 300.000 đồng đến 400.000 đồng:
+ Điều khiển xe đạp điện lạng lách, đánh võng; đuổi nhau trên đường;
+ Đi xe bằng một bánh;
+ Đi vào khu vực cấm; đường có biển báo hiệu nội dung cấm đi vào đối với các loại phương tiện đang điều khiển; đi ngược chiều đường của đường một chiều, đường có biển “Cấm đi ngược chiều”;
+ Điều khiển xe đạp điện trên đường mà trong máu hoặc hơi thở có nồng độ cồn mà vượt quá 50 miligam đến 80 miligam/100 mililít máu hoặc vượt quá 0,25 miligam đến 0,4 miligam/1 lít khí thở.
– Người điều khiển xe đạp điện có những hành vi sau đây bị phạt tiền từ 400.000 đồng đến 600.000 đồng:
+ Điều khiển xe đạp điện đi vào đường cao tốc, trừ phương tiện phục vụ việc quản lý, bảo trì đường cao tốc;
+ Điều khiển xe trên đường mà trong máu hoặc hơi thở có nồng độ cồn mà vượt quá 80 miligam/100 mililít máu hoặc vượt quá 0,4 miligam/1 lít khí thở;
+ Chở người ngồi trên xe đạp điện không đội mũ bảo hiểm hoặc có đội nhưng không cài quai đúng quy cách, trừ trường hợp chở người bệnh đi cấp cứu, chở trẻ em dưới 06 tuổi, áp giải người có hành vi vi phạm pháp luật;
+ Người điều khiển xe đạp điện không đội mũ bảo hiểm hoặc có đội nhưng không cài quai đúng quy cách khi tham gia giao thông trên đường bộ.
Các văn bản pháp luật được sử dụng trong bài viết:
– Nghị định 100/2019/NĐ-CP xử phạt vi phạm giao thông đường bộ và đường sắt;
– Nghị định 123/2021/NĐ-CP sửa đổi các Nghị định xử phạt VPHC lĩnh vực giao thông;
– Luật Giao thông đường bộ 2008.