Các quyền của người đại diện theo pháp luật của pháp nhân thương mại trong BLTTHS 2015 chủ yếu tập trung vào nội dung quyền pháp nhân thương mại được hưởng và thực hiện thông qua người đại diện theo pháp luật nhằm bảo vệ lợi ích chính pháp nhân.
Mục lục bài viết
1. Quyền của người đại diện theo pháp luật của pháp nhân tham gia tố tụng:
Quyền của người đại diện theo pháp luật của pháp nhân bị truy cứu TNHS được thể hiện với hai nội dung chính: (i) quyền trực tiếp, (ii) quyền thụ uỷ nhằm phù hợp với tư cách tố tụng của pháp nhân trong từng giai đoạn tố tụng cụ thể. Theo đó, quyền của người đại diện theo pháp luật của pháp nhân bị truy cứu TNHS là quyền đương nhiên được hưởng khi đã xác định địa vị pháp lý và vai trò tố tụng của bản thân. BLTTHS cho phép người đại diện theo pháp luật sử dụng một cách chủ động các quyền nêu trên ngay cả khi quyền đó là đại diện chó pháp nhân thương mại. Trong phạm vi hai nhóm quyền nêu trên, người đại diện theo pháp luật của pháp nhân bị truy cứu TNHS có thể đồng thời bảo vệ bản thân, thực hiện nghĩa vụ đối pháp nhân thương mại và nhân danh pháp nhân thương mại bảo vệ chính mình. Các quyền này được tổng hợp tại Điều 435 với nội dung:
“1. Người đại diện theo pháp luật của pháp nhân có quyền:
a) Được
b) Được biết lý do pháp nhân mà mình đại diện bị khởi tố
c) Được thông báo, được giải thích về quyền và nghĩa vụ quy định tại Điều này;
d) Được nhận quyết định khởi tố bị can đối với pháp nhân; quyết định thay đổi, bổ sung quyết định khởi tố bị can đối với pháp nhân; quyết định phê chuẩn quyết định khởi tố bị can đối với pháp nhân; quyết định phê chuẩn quyết định thay đổi, bổ sung quyết định khởi tố bị can đối với pháp nhân; quyết định áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp cưỡng chế; bản kết luận điều tra; quyết định đình chỉ, tạm đình chỉ điều tra; quyết định đình chỉ, tạm đình chỉ vụ án; bản cáo trạng, quyết định đưa vụ án ra xét xử; bản án, quyết định của
đ) Trình bày lời khai, trình bày ý kiến, không buộc phải đưa ra lời khai chống lại pháp nhân mà mình đại diện hoặc buộc phải thừa nhận pháp nhân mà mình đại diện có tội;
e) Đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu;
g) Đề nghị thay đổi người có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người giám định, người định giá tài sản, người phiên dịch, người dịch thuật theo quy định của Bộ luật này;
h) Tự bào chữa, nhờ người bào chữa cho pháp nhân;
i) Được đọc, ghi chép bản sao tài liệu hoặc tài liệu đã được số hóa liên quan đến việc buộc tội, gỡ tội hoặc bản sao tài liệu khác liên quan đến việc bào chữa cho pháp nhân kể từ khi kết thúc điều tra khi có yêu cầu;
k) Tham gia phiên tòa, đề nghị chủ tọa phiên tòa hỏi hoặc tự mình hỏi những người tham gia phiên tòa nếu được chủ tọa đồng ý, tranh luận tại phiên tòa;
l) Phát biểu ý kiến sau cùng trước khi nghị án;
m) Xem biên bản phiên tòa, yêu cầu ghi những sửa đổi, bổ sung vào biên bản phiên tòa;
n) Kháng cáo bản án, quyết định của Tòa án;
o) Khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng.”
Có thể thấy các quyền của người đại diện theo pháp luật có nội dung liên quan chặt chẽ đến nội dung các quyền của người bị tố giác, bị kiến nghị khởi tố, bị can, bị cáo (Điều 57, Điều 60, Điều 61 BLTTHS năm 2015); nhiều quy định tương đồng cho thấy bản chất phái sinh khi tiếp nhận quyền đại diện nhằm bảo vệ lợi ích hợp pháp của pháp nhân thương mại khi bị cáo buộc phạm tội. Tuy nhiên, việc quy định một cách trực tiếp mà không thông qua viện dẫn cho phép trao quyền một cách trực tiếp không thông qua pháp nhân thương mại. Nói cách khác, khi một cá nhân được xác định là người đại diện theo pháp luật thì họ đương nhiên được thụ hưởng các quyền nêu trên mà không cần pháp nhân thương mại phải uỷ quyền bằng một văn bản hợp pháp.
Cùng với đó, theo quy định tại Điều 57, Điều 60, Điều 61 BLTTHS năm 2015, người đại diện theo pháp luật có thể thực hiện các quyền khác nhân danh pháp nhân như:
Thứ nhất, tự bảo vệ hoặc nhờ người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
Điều này cho phép pháp nhân có thêm công cụ bảo vệ lợi ích hợp pháp của bản thân ngay từ những giai đoạn đầu tiên của hoạt động TTHS. Theo đó, ngoài việc tự bảo vệ, pháp nhân có thể nhờ một số cá nhân khác bảo vệ như luật sư, bào chữa nhân dân bảo vệ bản thân thông qua các nội dung quy định tại Điều 83 BLTTHS năm 2015.
Thứ hai, trình bày ý kiến về chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan và yêu cầu người có thẩm quyền tiến hành tố tụng kiểm tra, đánh giá
Ngoài ra, xuất phát từ điểm đ khoản 1 Điều 435 BLTTHS với quy định người đại diện theo pháp luật của pháp nhân thương mại có quyền “không buộc phải đưa ra lời khai chống lại pháp nhân mà mình đại diện hoặc buộc phải thừa nhận pháp nhân mà mình đại diện có tội”, người đại diện theo pháp luật của pháp nhân thương mại bị buộc tội có thể viện dẫn quyền im lặng trong các giai đoạn tố tụng khác nhau.
Ở cấp độ pháp luật quốc tế, Quyền im lặng là chế định phổ biến đối với chủ thể là thể nhân, theo đó: “một người không thể bị buộc để cho lời khai chống lại mình hoặc nhận mình có tội” [47]. Ở cấp độ pháp luật quốc gia, quyền im lặng có ý nghĩa quan trọng trong việc bảo vệ quyền con người và là cơ sở cần thiết để tạo nên một phiên toà công bằng cụ thể tại tu chính án thứ 5 của Hiến pháp Hoa Kỳ với nội dung không ai bị buộc phải trở thành nhân chứng chống lại mình trong bất kỳ vụ án hình sự nào” hay Điều 38 của Hiến pháp Nhật Bản năm 1946 với nội dung “Không ai bị buộc để cho lời khai chống lại mình”. Quan điểm cho rằng pháp nhân được phép thụ hưởng quyền im lặng xuất phát từ nội dung quyền tự bào chữa, với lập luận cho rằng việc tự cung cấp các tài liệu có thể dẫn tới hành vi tự buộc tội chính bản thân pháp nhân. Lập luận này sau đó được Toà án công lý của liên minh châu Âu (Court of Justice of the European Union) chấp thuận.
Điều này cũng cho thấy khả năng người đại diện theo pháp luật của pháp nhân có thể viện dẫn các quyền ngoài nội dung khoản 1 Điều 434 BLTTHS năm 2015 trên cơ sở tuân thủ các nguyên tắc cơ bản của PLHS và TTHS; do đó cần làm rõ nội dung quyền pháp nhân được thụ hưởng như:
Quyền bình đẳng trước pháp luật và tòa án;
Quyền được xét xử bởi một tòa án có thẩm quyền, độc lập và không thiên vị, được thành lập theo luật;
Quyền được xét xử công bằng;
Quyền được xét xử công khai;
Quyền được suy đoán vô tội (hay giả định vô tội);
Quyền không bị xét xử hồi tố và không bị xét xử hai lần về cùng hành
Quyền được tự bào chữa hoặc thông qua sự trợ giúp;
Quyền có thông dịch viên và dịch thuật; .vv…
Từ đó, làm căn cứ xác định nội dung quyền thụ uỷ của người đại diện theo pháp luật của pháp nhân bị truy cứu trách nhiệm hình sự.
Theo quan điểm của tác giả, nội dung các quyền của người đại diện theo pháp luật của pháp nhân thương mại trong BLTTHS năm 2015 vẫn chủ yếu tập trung vào nội dung quyền pháp nhân thương mại được hưởng và thực hiện thông qua người đại diện theo pháp luật nhằm bảo vệ lợi ích chính pháp nhân mà chưa có quy định cá nhân người đại diện theo pháp luật tự bảo vệ bản thân trước hệ thống thủ tục TTHS bao gồm cả các biện pháp cưỡng chế. Do vậy cần xem xét cung cấp những công cụ pháp lý cần thiết giúp họ tự bảo vệ bản thân, mặt khác cần giới hạn phạm vi biện pháp cưỡng chế đối với họ.
2. Nghĩa vụ của người đại diện theo pháp luật của pháp nhân tham gia tố tụng:
Nghĩa vụ của người đại diện theo pháp luật của pháp nhân bị truy cứu TNHS được quy định tại khoản 2 Điều 435 BLTTHS năm 2015 với nội dung:
“2. Người đại diện theo pháp luật của pháp nhân có nghĩa vụ:
a) Có mặt theo giấy triệu tập của người có thẩm quyền tiến hành tố tụng.
Trường hợp vắng mặt không vì lý do bất khả kháng hoặc do trở ngại khách quan thì có thể bị dẫn giải;
b) Chấp hành quyết định, yêu cầu của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng.”
Nội dung này được cụ thể hoá tại khoản 3 Điều 60, Điều 61 BLTTHS năm 2015 khi pháp nhân có tư cách tố tụng cụ thể với quy định nghĩa vụ của bị can, bị cáo “là pháp nhân được thực hiện thông qua người đại diện theo pháp luật của pháp nhân”.
Ngoài ra, người đại diện theo pháp luật phải có mặt trong phiên toà xét xử pháp nhân bản thân đại diện theo yêu cầu tại Điều 445 BLTTHS năm 2015. Nội dung này được thể hiện đồng thời là quyền và nghĩa vụ của người đại diện theo pháp luật nhằm trực tiếp giám sát hoạt động thực thi pháp luật của cơ quan THTT trong giai đoạn xét xử, qua đó kịp thời đưa ra ý kiến, đề nghị, lời bào chữa phù hợp và khiếu nại các hành vi tố tụng không phù hợp; mặt khác, nhằm đảm bảo phiên xét xử diễn ra công khai, minh bạch, đúng người đúng tội theo tinh thần của BLTTHS.
Trong trường hợp, người đại diện theo pháp luật của pháp nhân bị khởi tố đồng thời hoặc bổ sung sau quyết định khởi tố của pháp nhân thì tư cách tố tụng được xác định là bị can, bị cáo và không được phép nhân danh pháp nhân tham gia phiên toà xét xử. Pháp nhân phải cử người đại diện theo pháp luật mới theo đúng quy định pháp luật và tiếp tục tham gia các giai đoạn TTHS với nghĩa vụ tương tự.