Thừa kế là việc chuyển đổi quyền sở hữu tài sản từ người chết sang cho người đang còn sống. Vậy những ai được hưởng di sản thừa kế từ người chết để lại? Người mất năng lực hành vi dân sự có được thừa kế không?
Mục lục bài viết
- 1 1. Khi nào thì một người được xác định là mất năng lực hành vi dân sự?
- 2 2. Quy định về người giám hộ của người mất năng lực hành vi dân sự:
- 3 3. Người mất năng lực hành vi dân sự có được thừa kế không?
- 4 4. Quyền và nghĩa vụ của người giám hộ đối với tài sản mà người mất năng lực hành vi dân sự được hưởng từ việc phân chia di sản thừa kế:
1. Khi nào thì một người được xác định là mất năng lực hành vi dân sự?
Theo quy định tại Điều 19 Bộ luật Dân sự năm 2019 thì năng lực hành vi dân sự của một cá nhân được xác định là khả năng của cá nhân đó bằng hành vi của mình để xác lập cũng như thực hiện những quyền, nghĩa vụ dân sự có liên quan.
Vậy khi nào một người được xác định là mất năng lực hành vi dân sự? Căn cứ theo quy định tại khoản 1 Điều 22 Bộ luật Dân sự năm 2015 thì một người được coi là mất năng lực hành vi dân sự khi có đầy đủ các điều kiện sau:
– Do bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi;
– Có yêu cầu của người có quyền, lợi ích liên quan hoặc của cơ quan, tổ chức hữu quan;
– Tòa án ra quyết định tuyên bố người này là người mất năng lực hành vi dân sự theo yêu cầu của những chủ thể trên, trên cơ sở kết luận giám định pháp y tâm thần.
Như vậy, khi đáp ứng những điều kiện trên, có quyết định của Toà án tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự theo bản kết luận giám định pháp y tâm thần thì được xác định là người mất năng lực hành vi dân sự. Theo đó, người mất năng lực hành vi dân sự phải có người giám hộ theo quy định của pháp luật hiện hành.
2. Quy định về người giám hộ của người mất năng lực hành vi dân sự:
Để trở thành người giám hộ cho một cá nhân mất năng lực hành vi dân sự thì người giám hộ phải đáp ứng các điều kiện được quy định tại Điều 49 Bộ luật Dân sự năm 2015. Cụ thể các điều kiện được quy định như sau:
– Người giám hộ phải là người có năng lực hành vi dân sự đầy đủ;
– Là người có tư cách đạo đức tốt và có các điều kiện cần thiết để có thể thực hiện quyền và nghĩa vụ của người giám hộ;
– Người giám hộ phải là người không bị Toà án tuyên bố hạn chế quyền đối với con chưa thành niên;
– Người thực hiện vai trò giám hộ không phải là người đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc là người bị kết án nhưng chưa được xoá án tích về một trong các tội cố ý xâm phạm đến tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm và tài sản của người khác.
Căn cứ theo quy định tại Điều 53 Bộ luật Dân sự năm 2019 thì người giám hộ đương nhiên của người mất năng lực hành vi dân sự phải là người đáp ứng được đầy đủ các điều kiện nêu trên và nguyên tắc xác định người giám hộ được thực hiện như sau:
– Trong trường hợp người vợ là người mất năng lực hành vi dân sự thì người chồng sẽ là người giám hộ và ngược lại nếu chồng là người mất năng lực hành vi dân sự thì vợ sẽ là người giám hộ;
– Trong trường hợp cha và mẹ đều mất năng lực hành vi dân sự hoặc một trong hai người mất năng lực hành vi dân sự nhưng người kia không đủ điều kiện để làm người giám hộ thì người con cả của người đó sẽ là người giám hộ cho bố/ mẹ mình. Trong trường hợp người con cả không đáp ứng được đầy đủ điều kiện để làm người giám hộ thì thì người con tiếp theo có đủ điều kiện sẽ là người giám hộ cho bố mẹ;
– Trong trường hợp người mất năng lực hành vi dân sự là người thành niên nhưng chưa có vợ, chưa có chồng và con hoặc đã có vợ, có chồng, có con nhưng những người đó lại không đủ điều kiện để được làm người giám hộ thì cha, mẹ của người thành niên đó sẽ là người giám hộ.
3. Người mất năng lực hành vi dân sự có được thừa kế không?
Căn cứ theo quy định tại Điều 609 Bộ luật Dân sự năm 2015 thì cá nhân có quyền hưởng di sản thừa kế theo di chúc hoặc theo pháp luật. Bên cạnh đó, tại Điều 610 Bộ luật này cũng quy định mọi cá nhân đều có quyền bình đẳng trong việc hưởng di sản thừa kế theo di chúc hoặc theo pháp luật.
Như vậy, pháp luật thừa nhận quyền bình đẳng của mọi cá nhân trong việc hưởng di sản thừa kế theo di chúc hoặc theo pháp luật mà không có trường hợp ngoại lệ nào. Do đó mà người mất năng lực hành vi dân sự vẫn được hưởng di sản thừa kế bình đẳng như những người khác.
Việc bình đẳng trong hưởng di sản thừa kế cũng được Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định rõ trong các hình thức thừa kế: thừa kế theo di chúc và thừa kế theo pháp luật. Theo đó, khi người chết để lại di chúc thì việc định đoạt, phân chia di sản thừa kế sẽ thực hiện theo di chúc mà không phân biệt là người mất năng lực hành vi dân sự hay là người bình thường. Đối với trường hợp hưởng di sản thừa kế theo pháp luật cũng vậy, việc phân chia này thực hiện theo hàng thừa kế và cũng không có sự hạn chế nào đối với người mất năng lực hành vi dân sự, cụ thể như sau:
– Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết;
– Hàng thừa kế thứ hai gồm: ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị ruột, em ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại;
– Hàng thừa kế thứ ba gồm: cụ nội, cụ ngoại của người chết; bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột; chắt ruột của người chết mà người chết là cụ nội, cụ ngoại.
Tuy nhiên, khi hưởng di sản thừa kế theo pháp luật hoặc theo định đoạt trong di chúc thì dù là người mất năng lực hành vi dân sự hay người có đầy đủ năng lực hành vi dân sự phải bảo đảm điều kiện được quy định tại Điều 613 Bộ luật Dân sự năm 2015. Cụ thể như sau:
– Người thừa kế là cá nhân phải là người còn sống vào thời điểm mở thừa kế;
– Người thừa kế được sinh ra và còn sống sau thời điểm mở thừa kế nhưng đã thành thai trước khi người để lại di sản thừa kế chết;
– Đối với người thừa kế theo di chúc không phải là cá nhân thì phải tồn tại vào thời điểm mở thừa kế.
Như vậy, người mất năng lực hành vi dân sự vẫn được hưởng di sản thừa kế nhưng tại thời điểm mở thừa kế người đó phải còn sống.
4. Quyền và nghĩa vụ của người giám hộ đối với tài sản mà người mất năng lực hành vi dân sự được hưởng từ việc phân chia di sản thừa kế:
Căn cứ theo quy định tại Điều 59 Bộ luật Dân sự 2015 thì người giám hộ của người bị mất năng lực hành vi dân sự có quyền và nghĩa vụ trong việc quản lý tài sản của người được giám hộ như sau:
Đối với tài sản mà người mất năng lực hành vi dân sự được hưởng từ việc thừa kế di sản mà người chết để lại cũng như những loại tài sản khác của người đó thì người giám hộ của người mất năng lực hành vi dân sự có trách nhiệm quản lý tài sản của người đó như tài sản của chính mình. Theo đó, người giám hộ của người mất năng lực hành vi dân sự được thực hiện những giao dịch dân sự có liên quan đến tài sản của người mất năng lực hành vi dân sự được mình giám hộ vì lợi ích của người mất năng lực hành vi dân sự đó.
Việc thực hiện các giao dịch dân sự liên quan đến tài sản của người mất năng lực hành vi dân sự mà mình giám hộ thông qua buôn bán, trao đổi, cho thuê, cho mượn, cho vay, cầm cố, thế chấp, đặt cọc hay thực hiện những giao dịch dân sự khác với tài sản có giá trị lớn thì phải có sự đồng ý của người giám sát việc giám hộ. Nguyên tắc này đặt ra để bảo đảm quyền lợi của người mất năng lực hành vi dân sự đối với tài sản của mình.
Lưu ý: người giám hộ không được đem tài sản của người được giám hộ để đem tặng cho người khác. Nếu những giao dịch dân sự được xác lập giữa người giám hộ của người bị mất năng lực hành vi dân sự với người mất năng lực hành vi dân sự được giám hộ có liên quan đến tài sản của người được giám hộ đều được xác định là vô hiệu, trừ trường hợp giao dịch đó được xác lập để bảo đảm quyền và lợi ích của người mất năng lực hành vi dân sự và có sự đồng ý của người giám sát việc giám hộ.
Như vậy, đối với những tài sản của người mất năng lực hành vi dân sự, cụ thể ở đây là tài sản mà người đó được hưởng thừa kế theo di chúc hoặc theo pháp luật thì người giám hộ được quản lý tài sản đó như tài sản của mình nhưng phải phục vụ lợi ích hợp cho cho người được giám hộ như: chăm sóc, nuôi dưỡng…
Văn bản pháp luật được sử dụng trong bài viết: Bộ luật Dân sự năm 2015.