Hiến máu là gì? Hiến máu có tốt không? Các trường hợp không nên hiến máu?
Hiến máu không chỉ là cứu người mà còn mang lại lợi ích sức khỏe nhất định cho người hiến máu. Hiến máu làm cho tinh thần người hiến sau đó thoải mái hơn, hấp thụ được tốt hơn, ăn ngủ nghỉ đi vào chế độ. Cụ thể hiến máu được hiểu như thế nào? Hiến máu có tốt không và những trường hợp nào thì không nên hiến máu. Mời các bạn đọc tham khảo bài viết dưới đây:
Mục lục bài viết
1. Hiến máu là gì?
Căn cứ tại Khoản 1 Điều 2 Thông tư số 26/2013/TT-BYT hướng dẫn hoạt động truyền máu quy định về hiến máu như sau:
“Người hiến máu là người đủ điều kiện hiến máu theo quy định tại Thông tư này và tự nguyện hiến máu toàn phần hoặc một số thành phần máu.”
Trong đó, thành phần máu là một hoặc một số loại tế bào máu và hoặc huyết tương được lấy trực tiếp từ người hiến máu bằng gạn tách và được chống đông.
Máu toàn phần là máu được lấy từ tĩnh mạch người hiến máu có chứa các loại tế bào máu, huyết tương và được chống đông.
Nguyên tắc thực hiện hoạt động hiến máu:
– Vì mục đích nhân đạo, không vì mục đích lợi nhuận.
– Bảo đảm tự nguyện đối với người hiến máu; không ép buộc người khác hiến máu, thành phần máu.
– Chỉ sử dụng máu và các chế phẩm máu phục vụ chữa bệnh, đào tạo, nghiên cứu khoa học.
– Giữ bí mật các thông tin có liên quan đến người hiến máu, người nhận máu và chế phẩm máu.
– Bảo đảm an toàn cho người hiến máu, người bệnh được truyền máu, chế phẩm máu và nhân viên y tế có liên quan.
– Thực hiện truyền máu hợp lý đối với người bệnh.
2. Hiến máu có tốt không?
2.1. Tiêu chuẩn hiến máu:
Căn cứ tại Điều 4 Thông tư số 26/2013/TT-BYT quy định tiêu chuẩn người hiến máu, cụ thể:
Thứ nhất, về độ tuổi: từ đủ 18 tuổi đến 60 tuổi.
Thứ hai, về sức khỏe:
– Người có cân nặng ít nhất là 42 kg đối với phụ nữ, 45 kg đối với nam giới được phép hiến máu toàn phần; người có cân nặng từ 42 kg đến dưới 45 kg được phép hiến không quá 250 ml máu toàn phần mỗi lần; người có cân nặng 45 kg trở lên được phép hiến máu toàn phần không quá 09 ml/kg cân nặng và không quá 500ml mỗi lần.
– Người có cân nặng ít nhất là 50 kg được phép hiến các thành phần máu bằng gạn tách; người hiến máu có thể hiến một hoặc nhiều thành phần máu trong mỗi lần gạn tách, nhưng tổng thể tích các thành phần máu hiến không quá 500 ml; Người có cân nặng ít nhất là 60 kg được phép hiến tổng thể tích các thành phần máu hiến mỗi lần không quá 650 ml.
– Không mắc các bệnh mạn tính hoặc cấp tính về thần kinh, tâm thần, hô hấp, tuần hoàn, tiết niệu, tiêu hoá, gan mật, nội tiết, máu và tổ chức tạo máu, bệnh hệ thống, bệnh tự miễn, tình trạng dị ứng nặng; không mang thai vào thời điểm đăng ký hiến máu (đối với phụ nữ); không có tiền sử lấy, hiến, ghép bộ phận cơ thể người; không nghiện ma tuý, nghiện rượu; không có khuyết tật nặng và khuyết tật đặc biệt nặng theo quy định tại Luật Người khuyết tật; không sử dụng một số thuốc được quy định tại Phụ lục 1 ban hành kèm theo Thông tư này; không mắc các bệnh lây truyền qua đường máu, các bệnh lây truyền qua đường tình dục tại thời điểm đăng ký hiến máu
– Về khám lâm sàng:
+ Tỉnh táo, tiếp xúc tốt
+ Huyết áp tâm thu trong khoảng từ 100 mmHg đến dưới 160 mmHg và tâm trương trong khoảng từ 60 mmHg đến dưới 100 mmHg
+ Nhịp tim đều, tần số trong khoảng từ 60 lần đến 90 lần/phút
+ Không có một trong các biểu hiện sau: gày, sút cân nhanh (trên 10% cân nặng cơ thể trong thời gian 6 tháng); da xanh, niêm mạc nhợt; hoa mắt, chóng mặt; vã mồ hôi trộm; hạch to xuất hiện nhiều nơi; sốt; phù; ho, khó thở; tiêu chảy; xuất huyết các loại; có các tổn thương, dấu hiệu bất thường trên da
– Về khám xét nghiệm:
+ Đối với người hiến máu toàn phần và hiến các thành phần máu bằng gạn tách: nồng độ hemoglobin phải đạt ít nhất bằng 120 g/l; nếu hiến máu toàn phần thể tích trên 350 ml phải đạt ít nhất 125 g/l.
+ Đối với người hiến huyết tương bằng gạn tách: nồng độ protein huyết thanh toàn phần phải đạt ít nhất bằng 60g/l và được xét nghiệm trong thời gian không quá 01 tháng
+ Đối với người hiến tiểu cầu, bạch cầu hạt, tế bào gốc bằng gạn tách: số lượng tiểu cầu phải lớn hơn hoặc bằng 150´109/l.
2.2. Hiến máu có tốt không?
Khi hiến máu sẽ có những lợi ích nhất định đến sức khỏe:
– Giúp máu lưu thông tốt hơn: Hiến máu thường xuyên có thể giúp cải thiện dòng máu lưu thông, giảm tổn thương thành mạch máu và tắc nghẽn động mạch.
– Được cung cấp thông tin về các dấu hiệu, triệu chứng bệnh lý do nhiễm các vi rút viêm gan, HIV và một số bệnh lây truyền qua đường máu khác.
– Được giải thích về quy trình lấy máu, các tai biến không mong muốn có thể xảy ra, các xét nghiệm sẽ thực hiện trước và sau khi hiến máu.
– Được bảo đảm bí mật về kết quả khám lâm sàng, kết quả xét nghiệm; được tư vấn về các bất thường phát hiện khi khám sức khoẻ, hiến máu; được hướng dẫn cách chăm sóc sức khoẻ; được tư vấn về kết quả xét nghiệm bất thường theo quy định tại Khoản 4 Điều 17 Thông tư số 26/2013/TT-BYT
– Được chăm sóc, điều trị khi có các tai biến không mong muốn xảy ra trong và sau hiến máu theo quy định tại Phụ lục 4 ban hành kèm theo Thông tư số 26/2013/TT-BYT. Được hỗ trợ chi phí chăm sóc, điều trị khi có các tai biến không mong muốn xảy ra trong và sau hiến máu. Kinh phí để hỗ trợ chăm sóc điều trị người hiến máu theo quy định tại Khoản này được thực hiện theo quy định của pháp luật.
– Được cơ quan có thẩm quyền xem xét, quyết định tôn vinh, khen thưởng và bảo đảm các quyền lợi khác về tinh thần, vật chất của người hiến máu theo quy định của pháp luật.
3. Các trường hợp không nên hiến máu?
Căn cứ quy định tại Điều 5 Thông tư số 26/2013/TT-BYT quy định về các trường hợp lưu ý nên trì hoãn hiến máu, cụ thể:
– Những người phải trì hoãn hiến máu trong 12 tháng kể từ thời điểm:
+ Phục hồi hoàn toàn sau các can thiệp ngoại khoa
+ Khỏi bệnh sau khi mắc một trong các bệnh sốt rét, giang mai, lao, uốn ván, viêm não, viêm màng não
+ Kết thúc đợt tiêm vắc xin phòng bệnh dại sau khi bị động vật cắn hoặc tiêm, truyền máu, chế phẩm máu và các chế phẩm sinh học nguồn gốc từ máu;
+ Sinh con hoặc chấm dứt thai nghén
– Những người phải trì hoãn hiến máu trong 06 tháng kể từ thời điểm:
+ Xăm trổ trên da
+ Bấm dái tai, bấm mũi, bấm rốn hoặc các vị trí khác của cơ thể
+ Phơi nhiễm với máu và dịch cơ thể từ người có nguy cơ hoặc đã nhiễm các bệnh lây truyền qua đường máu
+ Khỏi bệnh sau khi mắc một trong các bệnh thương hàn, nhiễm trùng huyết, bị rắn cắn, viêm tắc động mạch, viêm tắc tĩnh mạch, viêm tuỷ xương, viêm tụy
– Những ngườì phải trì hoãn hiến máu trong 04 tuần kể từ thời điểm:
+ Khỏi bệnh sau khi mắc một trong các bệnh viêm dạ dày ruột, viêm đường tiết niệu, viêm da nhiễm trùng, viêm phế quản, viêm phổi, sởi, ho gà, quai bị, sốt xuất huyết, kiết lỵ, rubella, tả, quai bị
+ Kết thúc đợt tiêm vắc xin phòng rubella, sởi, thương hàn, tả, quai bị, thủy đậu, BCG
– Những ngườì phải trì hoãn hiến máu trong 07 ngày kể từ thời điểm:
+ Khỏi bệnh sau khi mắc một trong các bệnh cúm, cảm lạnh, dị ứng mũi họng, viêm họng, đau nửa đầu Migraine
+ Tiêm các loại vắc xin, trừ các loại đã được quy định
– Một số quy định liên quan đến nghề nghiệp và hoạt động đặc thù của người hiến máu: những người làm một số công việc và thực hiện các hoạt động đặc thù sau đây chỉ hiến máu trong ngày nghỉ hoặc chỉ được thực hiện các công việc, hoạt động này sau khi hiến máu tối thiểu 12 giờ:
+ Người làm việc trên cao hoặc dưới độ sâu: phi công, lái cần cẩu, công nhân làm việc trên cao, người leo núi, thợ mỏ, thủy thủ, thợ lặn
+ Người vận hành các phương tiện giao thông công cộng: lái xe buýt, lái tàu hoả, lái tàu thuỷ
+ Các trường hợp khác: vận động viên chuyên nghiệp, người vận động nặng, tập luyện nặng.
– Đối với các trường hợp không thuộc quy định tại các khoản 1, 2, 3, 4 và 5 Điều 5 Thông tư số 26/2013/TT-BYT thì việc trì hoãn hiến máu do bác sỹ khám tuyển chọn người hiến máu xem xét và quyết định.
Lưu ý: Về khoảng thời gian tối thiểu giữa các lần hiến máu và thành phần máu
– Khoảng thời gian tối thiểu giữa hai lần liên tiếp hiến máu toàn phần hoặc khối hồng cầu bằng gạn tách là 12 tuần.
– Khoảng thời gian tối thiểu giữa hai lần liên tiếp hiến huyết tương hoặc hiến tiểu cầu bằng gạn tách là 02 tuần.
– Hiến bạch cầu hạt trung tính hoặc hiến tế bào gốc bằng gạn tách máu ngoại vi tối đa không quá ba lần trong 07 ngày.
– Trường hợp xen kẽ hiến máu toàn phần và hiến các thành phần máu khác nhau ở cùng một người hiến máu thì khoảng thời gian tối thiểu giữa các lần hiến được xem xét theo loại thành phần máu đã hiến trong lần gần nhất.