Tạm giam là gì? Đối tượng áp dụng biện pháp ngăn chặn là tạm giam? Thời hạn tạm giam? Khi tạm giam bị can, bị cáo cơ quan chức năng có phải thông báo cho gia đình không?
Tạm giam là một trong các biện pháp ngăn chặn được cơ quan chức năng có thẩm quyền áp dụng khi một cá nhân có những hành vi phạm tội mà đã bị cơ quan chức năng ra quyết định khởi tố và ra quyết định tạm giam theo quy định tại Bộ Luật tố tụng Hình sự. Vậy khi cơ quan điều tra ra quyết định tạm giam đối với bị can thì có cần
Căn cứ pháp lý:
–
Luật sư
Mục lục bài viết
1. Tạm giam là gì?
Trong Bộ Luật Tố tụng hình sự Việt Nam quy định có tổng cộng 08 biện pháp ngăn chặn được áp dụng trong tố tụng hình sự, cụ thể:
– Giữ người trong trường hợp khẩn cấp;
– Bắt người;
– Tạm giữ;
– Tạm giam;
– Bảo lĩnh;
– Đặt tiền để bảo đảm;
– Cấm đi khỏi nơi cư trú;
– Tạm hoãn xuất cảnh.
Tạm giam là một trong các biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự do cơ quan điều tra (thủ trưởng, phó thủ trưởng), viện kiểm sát (Viện trưởng, phó viện trưởng), toà án (chánh án, phó chánh án, hội đồng xét xử) áp dụng đối với các bị can, bị cáo về tội rất nghiêm trọng hoặc tội đặc biệt nghiêm trọng hoặc đối với các bị can, bị cáo về tội nghiêm trọng hay tội ít nghiêm trọng theo quy định của luật tố tụng hình sự.
Có thể nói tạm giam là một trong những các biện pháp ngăn chặn có tính nghiêm khắc nhất trong những biện pháp ngăn chặn của tố tụng hình sự. Bởi vì người bị áp dụng biện pháp tạm giam sẽ bị cách li với toàn xã hội trong một khoảng thời gian nhất định đồng thời sẽ bị hạn chế một số quyền của công dân cũng như sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến quyền tự do thân thể của người đó.
Mục đích của tạm giam bị can, bị cáo trong tố tụng hình sự đó chính là nhằm ngăn chặn không để các bị can, bị cáo có điều kiện để tiếp tục phạm tội hoặc có những hành vi gây khó khăn trong việc giải quyết vụ án. Ngoài ra, việc áp dụng biện pháp ngăn chặn này còn có mục đích khác đó chính là nhằm đảm bảo thực hiện tốt các chức năng tố tụng của các cơ quan áp dụng.
2. Đối tượng áp dụng biện pháp ngăn chặn là tạm giam:
Quy định pháp luật về tố tụng hình sự quy định rõ về từng trường hợp phải áp dụng biện pháp ngăn chặn là tạm giam, đặc biệt biện pháp ngăn chặn này chỉ áp dụng cho những bị can, bị cáo. Cụ thể từng trường hợp như sau:
– Trường hợp thứ nhất: bị can, bị cáo về tội đặc biệt nghiêm trọng, tội rất nghiêm trọng. Có nghĩa là khi bị can, bị cáo thực hiện những hành vi phạm tội mà những hành vi đó cấu thành nên tội phạm rất nghiêm trọng (chính là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm đến xã hội là rất lớn, mức phạt của những tội đó là từ trên 07 năm đến 15 năm tù); tội đặc biệt nghiêm trọng (chính là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm đến xã hội là đặc biệt lớn, mức phạt của những tội đó là trên 15 năm đến 20 năm tù, tù chung thân hoặc tử hình).
– Trường hợp thứ 2: bị can, bị cáo về tội nghiêm trọng (tính chất và mức độ nguy hiểm đến xã hội lớn, mức phạt của những tội đó là từ trên 03 năm đến 07 năm tù), tội ít nghiêm trọng (tính chất và mức độ nguy hiểm đến xã hội không lớn, mức phạt của những tội đó là phạt tiền, phạt cải tạo không giam giữ hoặc phạt tù đến 03 năm) mà Bộ luật hình sự có quy định hình phạt tù trên 02 năm khi cơ quan chức năng có những căn cứ để xác định người đó thuộc một trong các trường hợp sau đây:
+ Đã bị áp dụng các biện pháp ngăn chặn khác nhưng vẫn vi phạm: có nghĩa là khi các bị can, bị cáo có các hành vi phạm tội mà hành vi đó cấu thành nên tội phạm nghiêm trọng, ít nghiêm trọng đã bị các cơ quan chức năng áp dụng các biện pháp ngăn chặn có tính chất ít nghiêm khắc hơn như bảo lĩnh, cấm đi khỏi nơi cư trú,…nhưng lại vi phạm những nghĩa vụ đã cam kết với cơ quan chức năng như tiếp tục lại phạm tội hay không có mặt khi cơ quan chức năng triệu tập.
+ Không có nơi cư trú rõ ràng hoặc không xác định được lý lịch của bị can: có nghĩa là bị can không có nơi đăng ký hộ khẩu thường trú hoặc đăng ký tạm trú; thường xuyên đi lang thang từ địa điểm này sang địa điểm khác và không có nơi ở nhất định.
+ Bỏ trốn và bị bắt theo quyết định truy nã của cơ quan chức năng có thẩm quyền hoặc có những dấu hiệu bỏ trốn;
+ Tiếp tục phạm tội hoặc có những dấu hiệu tiếp tục phạm tội;
+ Có những hành vi như mua chuộc, cưỡng ép, xúi giục người khác khai báo gian dối hoặc cung cấp tài liệu cho cơ quan chức năng sai sự thật;
+ Có những hành vi như tiêu hủy, giả mạo các chứng cứ, tài liệu, đồ vật của vụ án hay tẩu tán những tài sản liên quan đến vụ án
+ Có những hành vi đe dọa, khống chế, trả thù những người làm chứng, những người bị hại, những người tố giác tội phạm và người thân thích của những người này.
– Trường hợp thứ ba: bị can, bị cáo về tội ít nghiêm trọng (tính chất và mức độ nguy hiểm đến xã hội không lớn, mức phạt của những tội đó là phạt tiền, phạt cải tạo không giam giữ hoặc phạt tù đến 03 năm) mà Bộ luật hình sự quy định hình phạt tù đến 02 năm nếu họ lại tiếp tục phạm tội hoặc họ có hành vi bỏ trốn và bị bắt theo quyết định truy nã của cơ quan chức năng.
Tuy nhiên, pháp luật cũng đã thể hiện được tính nhân đạo đối với một số trường hợp đặc biệt như những bị can, bị cáo là:
– Phụ nữ có thai hoặc phụ nữ đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi nhưng phải có nơi cư trú và lý lịch rõ ràng
– Là người già yếu có nơi cư trú và lý lịch rõ ràng
– Người bị bệnh nặng có nơi cư trú và lý lịch rõ ràng
Những đối tượng này sẽ không bị áp dụng biện pháp ngăn chặn là tạm giam mà sẽ được cơ quan chức năng áp dụng những biện pháp ngăn chặn khác có tính chất nhẹ nhàng hơn, ít nghiêm khắc hơn. Tuy nhiên, các đối tượng này vẫn sẽ bị áp dụng biện pháp ngăn chặn là tạm giam nếu như họ có những hành vi sau:
– Bỏ trốn và bị bắt theo quyết định truy nã của cơ quan chức năng.
– Tiếp tục lại phạm tội;
– Có những hành vi như mua chuộc, cưỡng ép, xúi giục người khác khai báo gian dối hoặc cung cấp tài liệu cho cơ quan chức năng sai sự thật;
– Có những hành vi như tiêu hủy, giả mạo các chứng cứ, tài liệu, đồ vật của vụ án hay tẩu tán những tài sản liên quan đến vụ án
– Có những hành vi đe dọa, khống chế, trả thù những người làm chứng, những người bị hại, những người tố giác tội phạm và người thân thích của những người này.
– Họ là những tội xâm phạm về an ninh quốc gia và cơ quan chức năng có đủ căn cứ để xác định nếu không ra quyết định tạm giam họ thì sẽ gây nguy hại đến an ninh quốc gia.
3. Thời hạn tạm giam:
Tạm giam được áp dụng đối với các bị can, bị cáo trong các giai đoạn khác nhau của tố tụng hình sự. Mỗi giai đoạn sẽ có những thời hạn tạm giam là khác nhau.
3.1. Thời hạn tam giam đối với quá trình điều tra:
Quy định của pháp luật về tố tụng có quy định rõ về thời hạn tạm giam và thời hạn gia hạn tạm giam trong quá trình điều tra, cụ thể như sau:
– Đối với những tội phạm ít nghiêm trọng: Không được quá 02 tháng;
– Đối với những tội phạm nghiêm trọng: không được quá 03 tháng;
– Đối với những tội phạm rất nghiêm trọng và đặc biệt nghiêm trọng: không được quá 04 tháng.
Tuy nhiên, nếu vụ án có những tình tiết phức tạp mà cơ quan chức năng có thẩm quyền xét cần phải có nhiều thời gian hơn cho việc điều tra vụ án đó đồng thời không có căn cứ dẫn đến thay đổi hoặc huỷ bỏ biện pháp tạm giam đối với bị can thì sẽ được gia hạn thêm như sau:
– Đối với những tội phạm ít nghiêm trọng: gia hạn 01 lần không quá 01 tháng
– Đối với những tội phạm nghiêm trọng: gia hạn 01 lần không quá 02 tháng
– Đối với những tội phạm rất nghiêm trọng: gia hạn 01 lần không quá 03 tháng
– Đối với những tội phạm đặc biệt nghiêm trọng: gia hạn 02 lần mỗi lần không được quá 04 tháng
3.2. Thời hạn tạm giam để truy tố:
Truy tố chính là việc viện kiểm sát nhân dân tiến hành các hoạt động cần thiết nhằm mục đích là đưa các bị can ra trước toà án để xét xử hoặc để đưa ra những quyết định tố tụng khác nhằm giải quyết đúng đắn và kịp thời các vụ án hình sự.Quy định về tố tụng hình sự quy định thời hạn tạm giam để truy tố là không quá 05 ngày.
– Thời hạn tạm giam để chuẩn bị xét xử
– Sau khi thụ lý vụ án, thẩm phán của vụ án sẽ đưa ra quyết định việc áp dụng, thay đổi, huỷ bỏ biện pháp ngăn chặn.
– Nếu vẫn áp dụng biện pháp ngăn chặn là tạm giam thì thời hạn tạm giam để chuẩn bị xét xử đó là:
+ Đối với những tội phạm ít nghiêm trọng: tối đa 30 ngày
+ Đối với những tội phạm nghiêm trọng: tối đa 45 ngày
+ Đối với những tội phạm rất nghiêm trọng: tối đa 02 tháng
+ Đối với những tội phạm đặc biệt nghiêm trọng: tối đa 03 tháng
– Đến ngày mở phiên toà sơ thẩm mà thời hạn tạm giam đã hết nếu hội đồng xét xử của vụ án xét thấy cần tiếp tục tạm giam bị cáo để hoàn thành việc xét xử thì Hội đồng xét xử phải ra lệnh tạm giam bằng văn bản cho đến khi kết thúc phiên toà.
4. Khi tạm giam bị can, bị cáo cơ quan chức năng có phải thông báo cho gia đình không?
Tại khoản 6 điều 119 của Bộ Luật Tố tụng hình sự có quy định rõ:
“Cơ quan điều tra phải kiểm tra căn cước của người bị tạm giam và thông báo ngay cho gia đình người bị tạm giam, chính quyền xã, phường, thị trấn nơi người bị tạm giam cư trú hoặc cơ quan, tổ chức nơi người bị tạm giam làm việc, học tập biết”.
Như vậy, sau khi có quyết định tạm giam bị can của cơ quan điều tra thì nhiệm vụ của cơ quan điều tra sẽ phải làm là:
– Kiểm tra căn cước công dân/chứng minh thư nhân dân/hộ chiếu của người bị ra quyết định tạm giam;
– Thông báo ngay cho gia đình của người bị ra quyết định tạm giam, cho chính quyền địa phương của người bị tạm giam (xã, phường, thị trấn) hoặc cho cơ quan, tổ chức nơi người bị ra quyết định tạm giam làm việc, học tập.
Theo đó, khi cơ quan điều tra ra quyết định tạm giam đối với bị can thì bắt buộc phải thông báo tới gia đình của người bị tạm giam biết. Tuy nhiên, pháp luật không quy định rõ ràng về vấn đề cơ quan điều tra sẽ phải thông báo tới gia đình của người bị tạm giam bằng phương thức gì (bằng văn bản hay điện thoại liên lạc,..). Nhưng nếu như gia đình của người bị tạm giam không được được thông báo từ phía cơ quan điều tra hay chính quyền địa phương thì có nghĩa là cơ quan điều tra đang vi phạm quy định pháp luật về tố tụng.
Ngoài ra, Điểm d khoản 1 Điều 9 Luật Thi hành tạm giam, tạm giữ năm 2015 về quyền và nghĩa vụ của người bị tạm giữ, người bị tạm giam như sau: người bị tạm giam được quyền gặp thân nhân, người bào chữa, tiếp xúc lãnh sự. Người thân của người bị tạm giam có thể gặp người bị tạm giam một lần trong tháng. Ngoài ra, nếu được cơ quan đang thụ lý vụ án thì tcó thể tăng thêm số lần gặp hoặc người gặp không phải là thân nhân. Thời gian mỗi lần không quá một giờ.