Quy định của pháp luật về hành vi đọc trộm tin nhắn? Mức xử phạt hành chính đối với hành vi đọc trộm tin nhắn? Truy cứu trách nhiệm hình sự đối với hành vi đọc trộm tin nhắn?
Mỗi người khi sinh ra đều có những quyền cơ bản. Một trong số đó là quyền bất khả xâm phạm về thư tín, điện thoại, điện tín. Đây chính là một trong những quyền cơ bản của công dân. Mặc dù như thế thì trong cuộc sống vẫn còn rất nhiều hành vi đọc trộm tin nhắn vẫn diễn ra thường xuyên mà nhiều cá nhân thực hiện hành vi không biết rõ về hậu quả pháp lý của hành vi cụ thể này. Bài viết dưới đây chúng ta sẽ cùng nhau tìm hiểu đọc trộm tin nhắn người khác có làm sao không? Bị đi tù không?
Căn cứ pháp lý:
–
– Nghị định số 15/2020/NĐ-CP của Chính Phủ.
–
Mục lục bài viết
1. Quy định của pháp luật về hành vi đọc trộm tin nhắn:
Tin nhắn hay những trao đổi thư tín cá nhân được biết đến chính là bí mật của mỗi người, bí mật này của con người được pháp luật thừa nhận và bảo vệ. Tuy nhiên, trên thực tế thì ta nhận thấy không phải ai cũng hiểu và tôn trọng những bí mật này, việc đọc trộm tin nhắn vẫn diễn ra rất nhiều.
Bí mật thư tín, điện thoại, điện tín hoặc các hình thức thực hiện trao đổi thông tin riêng tư là một trong số những quyền cơ bản và thiêng liêng của con người và quyền này cũng đã được ghi nhận tại Điều 21
“1. Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân và bí mật gia đình; có quyền bảo vệ danh dự, uy tín của mình.
Thông tin về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình được pháp luật bảo đảm an toàn.
2. Mọi người có quyền bí mật thư tín, điện thoại, điện tín và các hình thức trao đổi thông tin riêng tư khác.
Không ai được bóc mở, kiểm soát, thu giữ trái luật thư tín, điện thoại, điện tín và các hình thức trao đổi thông tin riêng tư của người khác.”
Không những thế, tại khoản 3, Điều 38
Thư tín được biết đến là một dạng văn bản chứa đựng các thông tin mà các chủ thể là những người gửi muốn báo sang cho một hoặc nhiều người khác. Nội dung thông tin theo quy định pháp luật sẽ phụ thuộc vào ý chí của các chủ thể là những người gửi.
Thư tín sẽ được tồn tại dưới một dạng hình thức và đây cũng chính phương thức bảo quản thông tin trong quá trình di chuyển thông tin. Hiện nay thì ta nhận thấy rằng thư tín có rất nhiều hình thức, trong đó bao gồm những hhình thức phổ biến như sau:
– Thư được viết trên giấy bằng chữ viết tay hoặc đánh máy.
– Thông tin được chứa đựng trong các thiết bị lưu trữ như băng, đĩa, USB và nó được thể hiện cụ thể dưới dạng chữ viết, tiếng nói, hình ảnh hoặc bao gồm cả 3 dạng này.
– Thư điện tử như email, thư được soạn thảo trên máy tính hoặc các loại thư tín được soạn thảo trên điện thoại thông minh và được gửi cho người nhận thông qua mạng internet.
– Tin nhắn trên hộp thư thoại hoặc hộp tin nhắn trên số điện thoại, lời nhắn của các chủ thể ở trên các phần mềm nhắn tin. Trong giai đoạn hiện nay các phần mềm tin nhắn phổ biến được đông đảo người dân sử dụng như: Zalo, Facebook Messeger, Line, Snapchat, Viber và nhiều ứng dụng cụ thể khác.
– Một số các hình thức cụ thể khác.
Như vậy, ta nhận thấy, căn cứ cụ thể vào những quy định pháp luật và các phân tích cụ thể bên trên, thì ta nhận thây hành vi đọc trộm tin nhắn sẽ có thể bị xử phạt. Tin nhắn ở bất kỳ hình thức nào của các chủ thể trên thực tế sẽ đều được pháp luật bảo vệ và hành vi đọc trộm tin nhắn của các chủ thể cũng được coi là hành vi mà các chủ thể xâm phạm thư tín, điện thoại, điện tín, là trái pháp luật và hành vi này của các chủ thể sẽ cần phải được xử lý theo quy định của pháp luật.
Dù hành vi này chỉ là hành động nhỏ nhưng trong một số trường hợp nó để lại hậu quả vô cùng nghiêm trọng. Căn cứ cụ thể vào mức độ hành vi cũng như hậu quả mà chủ thể là người thực hiện hành vi đọc trộm tin nhắn mà người đó sẽ có thể bị xử phạt về vi phạm hành chính hoặc thậm chí là chủ thể đó còn có thể truy cứu trách nhiệm hình sự.
Cũng chính bởi vì thế, hành vi đọc trộm tin nhắn là hành vi mà các chủ thể đã vi phạm pháp luật, xâm phạm quyền bí mật đời tư của người khác và các chủ thể sẽ bị xử lý theo quy định.
Trên thực tế, việc vợ chồng đọc trộm tin nhắn của nhau, cha mẹ đọc trộm tin nhắn của con hay đọc trộm tin nhắn của người khác trên zalo, facebook,… trong giai đoạn hiện nay dều diễn ra rất nhiều. Việc vợ chồng đọc trộm tin nhắn của nhau, cha mẹ đọc trộm tin nhắn của con hay đọc trộm tin nhắn của người khác trên zalo, facebook đều là hành vi vi phạm pháp luật mà không phải ai cũng biết và nắm rõ hậu quả pháp lý phải gánh chịu nếu như các chủ thể vi phạm.
2. Mức xử phạt hành chính đối với hành vi đọc trộm tin nhắn:
Nếu như hành vi của chủ thể là những người đọc trộm tin nhắn không chỉ dừng ở mức độ xem trộm tin nhắn mà các chủ thể còn có hành vi tiết lộ, phát tán những tin nhắn đó nhằm mục đích để có thể xúc phạm danh dự, nhân phẩm của người khác thì sẽ bị xử phạt vi phạm hành chính theo đúng quy định của pháp luật.
Theo quy định tại khoản 2, Điều 51,
“Phạt tiền từ 1.000.000 đồng đến 1.500.000 đồng đối với một trong những hành vi sau đây:
a) Tiết lộ hoặc phát tán tư liệu, tài liệu thuộc bí mật đời tư của thành viên gia đình nhằm xúc phạm danh dự, nhân phẩm;”
Theo quy định cụ thể được ban hành cụ thể tại điểm e khoản 3 Điều 102 Nghị định số 15/2020/NĐ-CP của Chính Phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bưu chính, viễn thông, tần số vô tuyến điện, công nghệ thông tin và giao dịch điện tử thì mức xử phạt được quy định cụ thể như sau:
“3. Phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng đối với một trong các hành vi sau:
e) Thu thập, xử lý và sử dụng thông tin của tổ chức, cá nhân khác mà không được sự đồng ý hoặc sai mục đích theo quy định của pháp luật;
g) Cung cấp, trao đổi, truyền đưa hoặc lưu trữ, sử dụng thông tin số nhằm đe dọa, quấy rối, xuyên tạc, vu khống, xúc phạm uy tín của tổ chức, danh dự, nhân phẩm, uy tín của người khác”.
Như vậy, pháp luật hiện hành cũng đã quy định khá cụ thể về mức xử phạt hành chính đối với hành vi đọc trộm tin nhắn. Việc quy định như trên là rất hợp lý giúp đảm bảo quyền và lợi ích của các chủ thể cũng như mang tính chất răn đe, giáo dục đối với các chủ thể.
3. Truy cứu trách nhiệm hình sự đối với hành vi đọc trộm tin nhắn:
Theo quy định cụ thể tại Điều 159
“1. Người nào thực hiện một trong các hành vi sau đây, đã bị xử lý kỷ luật hoặc xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này mà còn vi phạm, thì bị phạt cảnh cáo, phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm:
a) Chiếm đoạt thư tín, điện báo, telex, fax hoặc văn bản khác của người khác được truyền đưa bằng mạng bưu chính, viễn thông dưới bất kỳ hình thức nào;
b) Cố ý làm hư hỏng, thất lạc hoặc cố ý lấy các thông tin, nội dung của thư tín, điện báo, telex, fax hoặc văn bản khác của người khác được truyền đưa bằng mạng bưu chính, viễn thông;
c) Nghe, ghi âm cuộc đàm thoại trái pháp luật;
d) Khám xét, thu giữ thư tín, điện tín trái pháp luật;
đ) Hành vi khác xâm phạm bí mật hoặc an toàn thư tín, điện thoại, điện tín, telex, fax hoặc hình thức trao đổi thông tin riêng tư khác của người khác.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 03 năm:
a) Có tổ chức;
b) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn;
c) Phạm tội 02 lần trở lên;
d) Tiết lộ các thông tin đã chiếm đoạt, làm ảnh hưởng đến danh dự, uy tín, nhân phẩm của người khác;
đ) Làm nạn nhân tự sát.
3. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định từ 01 năm đến 05 năm.”
Như vậy, ta nhận thấy, căn cứ theo quy định được nêu cụ thể bên trên, hành vi đọc trộm tin nhắn của người khác khi mà hành vi đó thỏa mãn các hành vi tại Điều 159 đã được nêu trên thì các chủ thể sẽ phải chịu trách nhiệm hình sự có thể là phạt tiền đến 50.000.000 đồng hoặc các chủ thể cũng sẽ có thể bị phạt cải tạo không giam giữ đến 3 năm hoặc phạt tù đến 3 năm.
Thông qua đó ta nhận thấy rằng, chủ thể là người xâm phạm quyền bí mật đời tư khác bằng cách đọc trộm tin nhắn của người khác thì các chủ thể hoàn toàn có thể sẽ phải chịu chế tài xử phạt nghiêm khắc của pháp luật, trong đó mức phạt cao nhất là 03 năm tù.
Ta nhận thấy rằng, việc các chủ thể đọc trộm tin nhắn có thể bị phạt hành chính hoặc xử lý hình sự căn cứ cụ thể vào tính chất, mức độ của hành vi của các chủ thể. Mỗi cá nhân đều cần tôn trọng quyền bí mật riêng tư của người khác, tránh trường hợp các cá nhân vi phạm làm ảnh hưởng đến cuộc sống của nhau cũng như tránh bị bị xử lý theo quy định pháp luật.