Quyền tự do của con người, quyền tự do, dân chủ của công dân là quyền Hiến định và được pháp luật bảo vệ. Theo đó, Bộ luật hình sự cũng dành ra cả một chương để quy định về các tội xâm phạm đến quyền này, trong đó có hành vi bắt, giữ hoặc giam người trái pháp luật.
Mục lục bài viết
1. Bắt giữ người là gì?
– Bắt người là biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự được áp dụng đối với bị can, bị cáo, người đang bị truy nã và trong trường hợp khẩn cấp hoặc phạm tội quả tang thì áp dụng đối với cả người chưa bị khởi tố về hình sự nhằm kịp thời ngăn chặn hành vi phạm tội của họ, ngăn ngừa họ trốn tránh pháp luật, tạo điều kiện thuận lợi cho việc điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự.
Bắt người đúng pháp luật là bắt người theo đúng quy đinh của pháp luật nhằm kịp thời ngăn chặn hành vi phạm tội của họ, ngăn ngừa họ trốn tránh pháp luật, tạo điều kiện thuận lợi cho việc điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự.
Những trường hợp được bắt giữ người
Theo quy định
– Giữ người trong trường hợp khẩn cấp
– Bắt người phạm tội quả tang
– Bắt người đang bị truy nã
– Bắt bị can, bị cáo để tạm giam
Quyền bất khả xâm phạm về thân thể là một trong những quyền tự do cá nhân rất quan trọng của công dân. Rộng hơn nữa, nó còn được coi như một quyền cơ bản của con người được công nhận tại Điều 9 Tuyên ngôn thế giới về Quyền con người năm 1948: “Không ai bị bắt, giam giữ hay đày đi nơi khác một cách độc đoán”. Điều 9 Công ước quốc tế về Các quyền dân sự và chính trị năm 1966 cũng ghi nhận: “Ai cũng có quyền tự do thân thể và an ninh thân thể. Không ai có thể bị bắt giữ hay giam cầm độc đoán. Không ai có thể bị tước đoạt tự do thân thể ngoại trừ những trường hợp và theo những thủ tục luật định”.
Trên cơ sở này, Hiến pháp Việt Nam năm 2013 đã quy định: “Công dân có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo vệ tính mạng, sức khỏe, danh dự và nhân phẩm. Không ai bị bắt, nếu không có quyết định của Tòa án nhân dân, quyết định hoặc phê chuẩn của Viện kiểm sát nhân dân, trừ trường hợp phạm tội quả tang. Việc bắt và giam giữ người phải đúng pháp luật”.
Từ các quy định của pháp luật quốc tế và của Hiến pháp, vấn đề bắt, giữ hoặc giam người được Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 (BLTTHS) cụ thể hóa bằng nguyên tắc cơ bản trong tố tụng hình sự Việt Nam – nguyên tắc bảo đảm quyền bất khả xâm phạm về thân thể của công dân – và hàng loạt các quy định chặt chẽ về căn cứ, thẩm quyền và thủ tục áp dụng các biện pháp bắt, giữ hoặc giam người.
Do đó, bất kỳ người nào xâm phạm đến quyền bất khả xâm phạm về thân thể của công dân thông qua hành vi bắt, giữ hoặc giam người trái pháp luật, thì tùy theo tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội đều phải bị xử lý bằng chế tài hành chính hay chế tài hình sự.
2. Định nghĩa về bắt giữ người trong tiếng Anh:
– Bắt giữ người trong tiếng anh là Arrest.
Arrest is a deterrent measure in criminal proceedings applicable to suspects, defendants, wanted persons, and in emergency cases or committing acts of tangible offense, also applicable to persons who have not been prosecuted. in order to promptly prevent their criminal acts, prevent them from evading the law, and facilitate the investigation, prosecution, adjudication and enforcement of criminal sentences.
– Một số từ vựng tiếng anh tiêu biểu liên quan trong cùng lĩnh vực như:
- Viện Kiểm sát (tiếng Anh là Procuracy)
- Hệ thống pháp luật (tiếng Anh là legal system)
- Công tố viên/Kiểm sát viên (tiếng Anh là prosecutor)
- Bộ Tư pháp (tiếng Anh là Ministry of Justice)
- Bị cáo (tiếng Anh là defendant)
- Thi hành án (tiếng Anh là judgment execution)
- Đội thi hành án (tiếng Anh là Department of Law Enforcement)
- Giấy triệu tập (tiếng Anh là the court summons)
- Luật sư tranh tụng (tiếng Anh là barrister)
Luật sư bào chữa (tiếng Anh là counsel)- Luật sư tư vấn (tiếng Anh là solicitor/advising lawyer)
- Cáo trạng (tiếng Anh là indictment)
- Buộc tội (tiếng Anh là charge)
- Lời khai (tiếng Anh là deposition)
- Đối chất (tiếng Anh là cross-examination)
- Thân chủ (tiếng Anh là client)
3. Quy định về tội bắt giữ hoặc giam người trái pháp luật:
Điều 157, Văn bản hợp nhất
“ 1. Người nào bắt, giữ hoặc giam người trái pháp luật, nếu không thuộc trường hợp quy định tại Điều 153 và Điều 377 của Bộ luật này, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm:
a) Có tổ chức;
b) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn;
c) Đối với người đang thi hành công vụ;
d) Phạm tội 02 lần trở lên;
đ) Đối với 02 người trở lên;
e) Đối với người dưới 18 tuổi, phụ nữ mà biết là có thai, người già yếu hoặc người không có khả năng tự vệ;
g) Làm cho người bị bắt, giữ, giam hoặc gia đình họ lâm vào hoàn cảnh kinh tế đặc biệt khó khăn;
h) Gây thương tích, gây tổn hại cho sức khỏe hoặc gây rối loạn tâm thần và hành vi của người bị bắt, giữ, giam mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%.
3.Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 12 năm:
a) Làm người bị bắt, giữ, giam chết hoặc tự sát;
b) Tra tấn, đối xử hoặc trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hoặc hạ nhục nhân phẩm của người bị bắt, giữ, giam;
c) Gây thương tích, gây tổn hại cho sức khỏe hoặc gây rối loạn tâm thần và hành vi của người bị bắt, giữ, giam mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên.
4. Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định từ 01 năm đến 05 năm.”
Thứ nhất: Điều luật quy định ba tội gồm:
– Tội bắt người trái pháp luật.
– Tội bắt giữ người trái pháp luật.
– Tội giam người trái pháp luật.
Thứ hai: Các yếu tố cấu thành tội bắt, giữ hoặc giam người trái pháp luật
Mặt khách quan: Mặt khách quan của tội này có các dấu hiệu sau:
– Đối với tội bắt người trái pháp luật: Được thể hiện ở hành vi khống chế người khác để tạm giữ hoặc tạm giam họ;
Việc khống chế này có thể dùng vũ lực hoặc các biện pháp khác nhau như trói, còng tay… (sau đó thường là người bị hại bị dẫn về nơi nhất định để tạm giữ hoặc tạm giam);
– Đối với tội giữ (tạm giữ) người trái pháp luật: Được thể hiện ở hành vi không cho người bị bắt đi đâu vượt ra ngoài sự kiểm soát của người phạm tội (như bắt ở trong nhà, bắt ngồi tại chỗ…) trong một thòi gian ngắn (thường là dưới 24 giờ).
– Đối với tội giam (tạm giam) người trái pháp luật: Được thể hiện qua hành vi nhốt người bị bắt vào một nơi trong một thời gian nhất định (như nhốt ở trong buồng, trong trại giam..).
– Dấu hiệu khác. Hành vi bắt giữ, hoặc giam người nêu trên phải trái với pháp luật, đây là dấu hiệu cấu thành cơ bản. Dấu hiệu trái pháp luật được thể hiện qua các đặc điểm sau:
+ Người không có thẩm quyền nhưng lại thực hiện việc bắt, giữ, giam người khác.
+ Người có thẩm quyền trong việc bắt, giữ hoặc giam người nhưng thực hiện việc bắt, giữ, giam người không đúng quy định của pháp luật như: Không có lệnh bắt, hoặc khi có lệnh bắt nhưng lai không lập biên bản theo đúng quy định không có người chứng kiến, tạm giam quá thời hạn hoặc bắt sai đối tượng…
Ngoài ra, nếu việc bắt, giữ, giam người trái pháp luật mà có dùng vũ lực dẫn đến gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khoẻ cho người bị hại thì người có hành vi nêu trên còn phải chịu trách nhiệm hình sự về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ người khác.
Tuy nhiên cần chú ý: Trường hợp bắt người trái pháp luật nhưng nhằm để chiếm đoạt tài sản (đưa ra yêu sách về tài sản đối với thân nhân của người bị bắt) thì hành vi này cấu thành tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản của công dân mà không cấu thành tội này.
– Hậu quả của tội này thường là làm cho người bị hại hoặc do bị uất ức dẫn đên tự sát, hoặc bị tra tấn dùng nhục hình, gây thương tích hoặc gây tổn hại đến sức khoẻ… Tuy nhiên hậu quả đó không phải là dấu hiệu cấu thành cơ bản mà chỉ có ý nghĩa trong việc định khung hình phạt hoặc lượng hình.
– Mục đích của tội này không phải là dấu hiệu bắt buộc, nhưng nếu có tương ứng vói dấu hiệu cấu thành cơ bản của một tội khác, thì người có hành vi bắt, giữ, giam người trái pháp luật phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội tương ứng đó.
Ví dụ: bắt phụ nữ nhằm mục đích bán sang Trung Quốc kiếm tiền thì phạm tội mua bán người; hoặc bắt người trái pháp luật nhưng nhằm mục đích chiếm đoạt tài sản (đưa ra yêu sách về tài sản đối với người thân của người bị bắt), thì hành vi đó cấu thành tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản.
– Trường hợp bắt, giữ, giam người trái pháp luật do thiếu trách nhiệm hoặc do trình độ nghiệp vụ non kém thì người có hành vi đó không phạm lỗi cố ý và đương nhiên không đủ yếu tố cấu thành tội phạm này.
– Tội phạm hoàn thành kể từ khi người phạm tội có hành vi nhằm đến việc bắt, giữ, giam người trái pháp luật.
Ví dụ: Chuẩn bị công cụ phương tiện, địa điểm, thời gian, lực lượng để thực hiện tội phạm. Nếu chưa bắt, giữ, giam được người bị hại thì tuỳ từng trường hợp cụ thể mà người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội này ở giai đoạn chuẩn vị, hoặc phạm tội chưa đạt.
Khách thể
Hành vi phạm tội nêu trên xâm phạm đến quyền tự do thân thể của công dân được pháp luật bảo vệ.
Mặt chủ quan
Người phạm tội thực hiện tội phạm này với lỗi cố ý.
Chủ thể
Chủ thể của tội phạm này là bất kỳ người nào có năng lực trách nhiệm hình sự.
Hình phạt
Mức hình phạt chung của ba tội này được chia thành ba khung, cụ thể như sau:
– Khung một (khoản 1)
Có mức hình phạt là phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến hai năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến hai năm. Được áp dụng đối với trường hợp phạm tội có đủ dấu hiệu cấu thành cơ bản của tội này.
– Khung hai (khoản 2)
Có mức phạt tù từ một năm đến năm năm. Được áp dụng đối vôi một trong các trường hợp phạm tội sau đây:
+ Có tổ chức.
+ Lợi dụng chức vụ, quyền hạn: Hành vi này được hiểu là người có chức vụ, quyền hạn trong việc bắt, giữ hoặc giam người đã sử dụng chức vụ, quyền hạn của mình như một phương tiện để thực hiện hành vi phạm tội.
+ Đối với người thi hành công vụ: Người thi hành công vụ là những người đang thực hiện các nhiệm vụ, công vụ của Nhà nước,
+ Phạm tội nhiều lần: Được hiểu là hành vi phạm tội này từ hai lần trở lên, mỗi lần phạm tội đều có đủ dấu hiệu cấu thành tội bắt, giữ hoặc giam người trái pháp luật và trong các lần phạm tội .đó chưa lần nào bị truy cứu trường hợp hình sự và cũng chưa hết thòi hiệu bị truy cứu trách nhiệm hình sự.
+ Đối với nhiều người: Được hiểu là việc thực hiện hành vi phạm tội đối vối từ hai người bị hại trở lên.
– Khung ba (khoản 3)
Có mức phạt tù từ ba năm đến mưòi năm. Được áp dụng đối với trường hợp phạm tội gây hậu quả nghiêm trọng.
– Hình phạt bổ sung (khoản 4)
Ngoài việc phải chịu một trong các hình phạt chính như nêu trên, người phạm tội còn bị cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định từ một năm đến năm năm.
Tóm lại, quyền bất khả xâm phạm về thân thể là một trong những quyền tự do, dân chủ rất quan trọng của công dân được bảo vệ bằng Hiến pháp và pháp luật. Xâm phạm đến quyền này chính là xâm phạm đến quyền con người. Bởi lẽ, “quyền con người là những quyền bẩm sinh, vốn có của con người mà nếu không được hưởng thì chúng ta sẽ không thể sống như một con người”. Do đó, nếu người nào thực hiện hành vi bắt, giữ hoặc giam người trái pháp luật đều phải bị xử lý nghiêm minh theo đúng các quy định của pháp luật.