Quy định về chuyển nhượng cổ phần trong công ty cổ phần. Điều kiện, thủ tục chuyển nhượng cổ phần của cổ đông trong công ty cổ phần được quy định như thế nào?
Mục lục bài viết
I. Những quy định hiện hành về chuyển nhượng cổ phần
1. Quy định chung về chuyển nhượng cổ phần
1.1. Khái niệm chuyển nhượng cổ phần là gì?
Cổ phần: là phần vốn nhỏ nhất của công ty hay nói cách khác đi vốn của công ty được chia thành nhiều phần bằng nhau gọi là cổ phần.
Cổ phiếu: của công ty cổ phần là chứng chỉ do công ty cổ phần phát hành hoặc bút toán ghi sổ để xác nhận quyền sở hữu một hoặc một số cổ phần của công ty đó.
Chuyển nhượng cổ phần: là hành vi làm thay đổi ( mua bán, biếu tặng, thừa kế…) số lượng cổ phần đang nắm giữ.
1.2. Phân loại cổ phần
Trong công ty cổ phần có thể tồn tại hai loại cổ phần:
Cổ phần phổ thông: là cổ phần chỉ hưởng lãi hoặc chịu lỗ dựa trên kết quả hoạt động của công ty.
Cổ phần ưu đãi: là cổ phần có một đặc quyền nào đó. Cổ phần ưu đãi chia thành các loại như sau:
Cổ phần ưu đãi biểu quyết: là loại cổ phần có số biểu quyết nhiều hơn so với cổ phần phổ thông. Nhiều hơn bao nhiêu lần do điều lệ công ty quy định.
Cổ phần ưu đãi cổ tức: là loại cổ phần được trả cổ tức (tiền lãi) với mức cao hơn so với mức cổ tức của cổ phần phổ thông hoặc mức ổn định hàng năm.Cổ tức được chia có hai loại: cổ tức cố định và cổ tức thưởng.
Cổ phần ưu đãi hoàn lại: là cổ phần sẽ được công ty hoàn vốn góp bất cứ khi nào theo yêu cầu của người sở hữu hoặc theo các điều kiện được ghi tại cổ phiếu của cổ phần ưu đãi hoàn lại
1.3. Các điều kiện chuyển nhượng
Đối với cổ phần thường:
Theo khoản 5 Điều 81 Luật doanh nghiệp năm 2005, cổ phần thường được tự do chuyển nhượng, trừ trường hợp sau:
Theo khoản 5 Điều 84, trong thời hạn 3 năm kể từ ngày công ty được cấp giấy chứng nhận đăng kí kinh doanh, cổ đông sáng lập có quyền tự do chuyển nhượng cổ phần phổ thông của mình cho cổ đông sáng lập khác, nhưng chỉ được chuyển nhượng cổ phần phổ thông của mình cho người không phải là cổ đông sáng lập nếu có sự chấp thuận của Đại hội đồng cổ đông.
Trong trường hợp này, cổ đông dự định chuyển nhượng cổ phần không có quyền biểu quyết về việc chuyển nhượng cổ phần đó và người nhận chuyển nhượng đương nhiên trở thành cổ đông sáng lập của công ty.
Sau thời hạn 3 năm, kể từ ngày công ty được cấp giấy chứng nhận đăng kí kinh doanh, các hạn chế đối với cổ phần phổ thông của cổ đông sáng lập đều được bãi bỏ. Nguyên nhân có qui định trên vì đây là qui định nhằm bảo vệ các nhà đầu tư, các cổ đông sáng lập ra công ty không được tự ý bỏ công ty được. Đây chính là một qui định mang tính ràng buộc nghĩa vụ vật chất của cổ đông sáng lập với người mua nhằm tránh tình trạng tuyên truyền lừa đảo.
Luật sư
Đối với cổ phần ưu đãi:
Qui định về chuyển nhượng cổ phần ưu đãi phụ thuộc vào điều lệ công ty và Luật doanh nghiệp 2005.
Cổ phần ưu đãi biểu quyết: Theo khoản 3 điều 87 Luật Doanh nghiệp 2005, chỉ có các Tổ chức được Chính phủ ủy quyền và cổ đông sáng lập mới có quyền nắm giữ cổ phiếu ưu đãi biểu quyết; đây là loại cổ phần có số phiếu biểu quyết nhiều hơn so với cổ phiếu phổ thông, số phiếu biểu quyết của một số cổ phần ưu đãi biểu quyết do điều lệ công ty qui định; cổ đông sở hữu cổ phần ưu đãi biểu quyết không được chuyển nhượng cổ phần đó cho người khác. Sau 3 năm kể từ ngày cấp giấy Chứng nhận đăng kí kinh doanh, cổ phần ưu đãi biểu quyết sẽ được chuyển đổi thành cổ phần phổ thông và được tự do chuyển nhượng như cổ phần phổ thông được phát hành trước đó. Việc cấm chuyển nhượng cổ phần ưu đãi biểu quyết nhằm đảm bảo cho những thành viên sáng lập có thể duy trì được ý tưởng kinh doanh ban đầu của mình, tránh cho công ty mất tính ổn định trong những năm đầu thành lập.
Cổ phần ưu đãi cổ tức, cổ phần ưu đãi hoàn lại và cổ phần ưu đãi khác: Không bị điều chỉnh trong Luật Doanh nghiệp 2005 nên tùy từng điều lệ của công ty qui định những điều kiện để được chuyển nhượng khác nhau.
Ví dụ: Công ty cổ phần nhựa Tân Đại Á có qui định cổ phần ưu đãi chỉ được chuyển nhượng sau 4 năm kể từ ngày phát hành hay như đối với công ty cổ phần du lịch Việt Nam – Hà Nội thì cổ phần mua với giá ưu đãi đối với công nhân viên lại được tự do chuyển nhượng trong khi cổ phần ưu đãi dành cho nhà đầu tư chiến lược lại bị cấm chuyển nhượng hoặc chuyển nhượng có điều kiện..
1.4. Một số trường hợp đặc biệt trong chuyển nhượng cổ phần
Cổ phần phát hành riêng lẻ:
Theo nghị định số 01/2010/NĐ-CP cổ phần mà các công ty cổ phần khi phát hành riêng lẻ không được chuyển nhượng trong thời hạn một năm kể từ ngày phát hành.
Tuy nhiên, qui định này sẽ gây khó khăn hơn cho doanh nghiệp khi phát hành cổ phiếu riêng lẻ, nhưng đây là một động thái tích cực nhằm ngăn chặn nguy cơ đầu cơ và bán khống của các nhà đầu tư nếu không hạn chế thời gian chuyển nhượng.
Cụ thể, cổ phiếu A được bán cho nhà đầu tư chiến lược với giá 50000đ/cổ phiếu. Ngay tại thời điểm chốt danh sách nhà đầu tư được phép mua riêng lẻ, giá cổ phiếu A là 100000đ/cổ phiếu, nhà đầu tư có thể mượn cổ phiếu để giao dịch và sau đó sẽ trả lại khi cổ phiếu riêng lẻ được phát hành sau đó một thời gian ngắn (vì cổ phiếu riêng lẻ chỉ được bán cho một số nhà đầu tư chiến lược, với giá bán thấp hơn nhiều so với giá bán trên thị trường).
Đồng thời, qui định này cũng ngăn chặn được sự liên kết của những nhà đầu tư và những cổ đông lớn của doanh nghiệp (cũng chính là những người có quyền quyết định chào bán riêng lẻ) nhằm cố ý chấp nhận giảm giá trị vốn góp ở công ty để phát hành cổ phiếu với giá rẻ hơn giá trị nội tại của công ty nhằm chia lợi ích. Vì vậy, với qui định cấm chuyển nhượng cổ phiếu phát hành riêng lẻ trong vòng một năm, vốn của nhà đầu tư sẽ bị chôn trong một thời gian khá dài, thậm chí nhà đầu tư phải đối mặt với rủi ro cao nếu xu hướng giá thị trường giảm mạnh. Do đó, nhà đầu tư khi muốn mua cổ phiếu phát hành riêng lẻ thì buộc phâỉ hiểu rõ tình hình hoạt động của công ty cũng như tin vào khả năng tăng trưởng trong tương lai của công ty.
Đối với ngân hàng thương mại cổ phần:
Cổ phần phổ thông của thành viên sáng lập của ngân hàng thương mại cổ phần mới thành lập, trong vòng 5 năm kể từ ngày được cấp giấy phép, chỉ được chuyển nhượng cổ phần phổ thông trong tổng số cổ phần góp vốn khi thành lập ngân hàng cho cổ đông sáng lập khác.
Đối với cổ đông không phải thành viên sáng lập của ngân hàng, trong thời gian 3 năm kể từ ngày cấp giấy phép thành lập, chỉ được phép chuyển nhượng số cổ phần vốn góp của mình khi ngân hàng thành lập cho cổ đông khác của ngân hàng.
Đối với ngân hàng thương mại cổ phần, những giao dịch chuyển nhượng sau cần có văn bản chấp thuận của thống đốc ngân hàng nhà nước :
Các giao dịch mua bán mức cổ phần trọng yếu (đây là giao dịch mua bán của cổ đông nắm giữ 5% vốn cổ phần có quyền biểu quyết trở lên);
Các giao dịch mua bán cổ phần dẫn đến cổ đông đang sở hữu mức cổ phần trọng yếu trở thành không sở hữu cổ phần trọng yếu và ngược lại.
Cổ đông cá nhân, cổ đông pháp nhân có người đại diện vốn góp là thành viên Hội đồng quản trị, thành viên Ban Kiểm soát, Tổng giám đốc trong thời gian đảm nhiệm chức danh và trong thời gian 01 năm, kể từ thời điểm không đảm nhiệm chức danh, được chuyển nhượng cổ phần nhưng phải giữ lại tối thiểu 50% tổng số cổ phần mà mình sở hữu vào thời điểm được Đại hội đồng cổ đông bầu hoặc được Hội đồng quản trị bổ nhiệm và phải có văn bản báo cáo Ngân hàng Nhà nước trước khi thực hiện việc chuyển nhượng cổ phần tối thiểu 15 ngày làm việc đối với số cổ phần được phép chuyển nhượng.
Trong thời gian đang xử lý các hậu quả theo nghị quyết của Đại hội đồng cổ đông do trách nhiệm cá nhân, các thành viên Hội đồng quản trị, thành viên Ban Kiểm soát, Tổng giám đốc không được chuyển nhượng cổ phần, trừ trường hợp các thành viên này:
Là đại diện theo ủy quyền của cổ đông là tổ chức bị sáp nhập, hợp nhất, chia tách, giải thể, phá sản theo quy định pháp luật;
Bị bắt buộc chuyển nhượng cổ phần theo quyết định của Tòa án.
Đồng thời, phải có sự chấp thuận của ngân hàng nhà nước nếu có sự chuyển nhượng cổ phần của ngân hàng cổ phần do nhà nước nắm giữ trên 50% vốn điều lệ.
Đối với nhà đầu tư nước ngoài:
Nhà đầu tư chiến lược nước ngoài và người có liên quan chỉ được phép chuyển nhượng cổ phần thuộc sở hữu của mình cho tổ chức, cá nhân khác (kể cả trong nước và ngoài nước) tối thiểu sau 5 năm kể từ khi trở thành là nhà đầu tư chiến lược nước ngoài tại một ngân hàng Việt Nam.
Tổ chức tín dụng nước ngoài và người có liên quan sở hữu 10% vốn điều lệ tại một ngân hàng Việt Nam chỉ được phép chuyển nhượng cổ phần thuộc sở hữu của mình cho tổ chức, cá nhân khác (kể cả trong nước và ngoài nước) tối thiểu sau 3 năm kể từ khi sở hữu 10% vốn điều lệ của một ngân hàng Việt Nam.
Đây chính là những qui định chặt chẽ nhằm bảo vệ nhà đầu tư cũng như giữ vững được sự ổn định của một hoạt động mang tính hệ thống và có tầm ảnh hưởng lớn đến nền kinh tế như hoạt động ngân hàng. Đồng thời, các qui định trên cũng ràng buộc lợi ích của thành viên sáng lập và đại diện pháp luật của ngân hàng với ngân hàng
Thông tư 08/2008/TT-NHNN ngày 22/3 của Ngân hàng Nhà nước qui định các tổ chức tín dụng có thể đặt vào tình trạng kiểm soát đặc biệt dưới sự kiểm soát trực tiếp của Ngân hàng Nhà nước nếu có nguy cơ mất khả năng chi trả; nợ không có khả năng thu hồi; có nguy cơ mất khả năng thanh toán. Trong thời gian kiểm soát đặc biệt, nghiêm cấm chủ tịch và thành viên hội đồng quản trị, thành viên ban kiểm soát, tổng giám đốc hoặc giám đốc chuyển nhượng cổ phần, chia cổ tức, cất giấu, tẩu tán, cầm cố, thế chấp, chuyển nhượng hoặc có bất cứ giao dịch nào có liên quan; từ chối hoặc giảm bớt quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm đối với khách hàng.
2. Cách thức chuyển nhượng cổ phần
2.1. Chuyển nhượng trực tiếp
Khái niệm:
Đây là hình thức chuyển nhượng mà các cổ đông chuyển nhượng cổ phần cho nhau hoặc chuyển nhượng cho người ngoài công ty thông qua trao đổi trực tiếp. Ở đây có nghĩa là người bán và người mua gặp gở nhau trực tiếp, tự thỏa thuận với nhau về giá cả, người mua trực tiếp tự kiểm tra, đánh giá chất lượng của cổ phần chào bán. Hình thức này xảy ra với người chuyển nhượng và người được chuyển nhượng thường là những người quen biết nhau. Thủ tục giao dịch do hai bên tự thỏa thuận theo qui định của luật dân sự.
Đối với các hành vi chuyển nhượng khác như cho – tặng, thừa kế… cũng thuộc hình thức chuyển nhượng trực tiếp.
Qui trình thủ tục chuyển nhượng : gồm 6 bước.
Bước 1:Tiếp nhận hồ sơ
Công ty cổ phần ( hoặc là công ty chứng khoán nhận quản lý sổ
cổ đông của công ty) tiếp nhận hồ sơ và yêu cầu chuyển nhượng cổ phần của cổ đông
Hồ sơ chuyển nhượng bao gồm:
Giấy chuyển nhượng cổ phần (yêu cầu chuyển nhượng cổ phần) hoặc hợp đồng chuyển nhượng cổ phần có chữ kí của bên mua và bên bán ( nếu một trong hai bên là tổ chức thì phải có chữ kí của người được ủy quyền hoặc đại diện theo pháp luật và con dấu của tổ chức đó).
Sổ chứng nhận cổ đông hoặc giấy sở hữu cổ phần của bên chuyển nhượng và bên nhận chuyển nhượng (nếu bên mua cũng là cổ đông của công ty).
Giấy tờ khác của bên chuyển nhượng:
Đối với cá nhân:
Giấy photo chứng minh nhân dân/Hộ chiếu (được ghi trên Giấy chứng nhận cổ phần) của bên chuyển nhượng (có bản chính để đối chiếu).
Trong trường hợp cổ đông không thể thực hiện trực tiếp thủ tục chuyển nhượng có thể thực hiện ủy quyền cho người khác, người được ủy quyền nộp 1 bản Giấy chứng nhận ủy quyền và mang theo chứng minh nhân dân/ hộ chiếu để đối chiếu hoặc 1 bản sao y công chứng, mẫu xác nhận mẫu chữ kí của cổ đông có chứng thực của chính quyền địa phương (bản chính).
Đối với tổ chức:
– Giấy xác nhận đăng kí kinh doanh (1 bản sao có công chứng).
– Văn bản chấp thuận chuyển nhượng cổ phần của hội đồng thành viên/ hội đồng quản trị hoặc người có thẩm quyền theo qui định của điều lệ tổ chức và bên chuyển nhượng.
– Giấy giới thiệu của tổ chức và chứng minh nhân dân của người được tổ chức giới thiệu thay mặt tổ chức thực hiện giao dịch chuyển nhượng (bản chính).
Giấy tờ khác của bên nhận chuyển nhượng:
– Chứng minh nhân dân/ hộ chiếu của bên nhận chuyển nhượng.
– Giấy ủy quyền và chứng minh nhân dân/ hộ chiếu của người được ủy quyền.
– Nếu bên nhận chuyển nhượng là tổ chức:
– Giấy phép đăng kí kinh doanh (có công chứng).
– Điều lệ công ty (có công chứng).
– Văn bản chấp nhận nhận chuyển nhượng của hội đồng cá nhân hoặc hội đồng thành viên hoặc cá nhân có thẩm quyền theo điều lệ hoạt động của công ty.
– Giấy giới thiệu của tổ chức và chứng minh nhân dân, hộ chiếu của người được tổ chức ủy quyền thay mặt thực hiện giao dịch.
Đối với cá nhân, tổ chức nước ngoài:
– Bản sao hộ chiếu hoặc chứng thực cá nhân hợp pháp.
– Tài liệu chứng minh nguồn tài sản hợp pháp.
– Các văn bản của cá nhân nước ngoài phải được hợp pháp hóa lãnh sự hoặc chứng nhận của cơ quan có thẩm quyền.
Tất cả hồ sơ trên phải làm 1 bộ bằng tiếng Việt và 1 bộ bằng tiếng Anh.
Đối với trường hợp thừa kế thì phải có đầy đủ giấy tờ chứng minh quyền thừa kế hợp lệ theo quy định của Bộ luât Dân sự hiện hành.
Bước 2: Kiểm tra hồ sơ chuyển nhượng cổ phần.
Nhân viên quản lý sổ cổ đông cho công ty tiến hành kiểm tra:
Kiểm tra tính hợp lệ, tính pháp lý của chứng từ chuyển nhượng và thông tin liên quan đến chứng từ chuyển nhượng
Kiểm tra, đối chiếu số lượng cổ phần chuyển nhượng
Phân loại hồ sơ chuyển nhượng, những trường hợp chuyển nhượng có điều kiện theo luật doanh nghiệp 2005 và điều lệ công ty thì phải có phê duyệt của Hội Đồng Quản trị
Bước 3: Thu phí và cấp giấy xác nhận
Nếu hồ sơ chuyển nhượng đầy đủ và hợp lệ nhân viên tiếp nhận hồ sơ chuyển nhượng kí xác nhận trên giấy đề nghị chuyển nhượng.
Tiến hành thu phí chuyển nhượng theo mức phí thỏa thuận.
Bước 4: Lập phiếu hẹn cấp/ trả sổ cổ đông
Tùy theo mỗi công ty mà thời gian hẹn cấp/trả sổ cổ đông sẻ khác nhau. Thông thường là 5-10 ngày đối với cá nhân thực hiện chuyển nhượng cổ phần và 15 ngày đối với tổ chức.
Bước 5: In sổ cồ đông
Bộ phận quản lý sổ cổ đông của công ty căn cứ vào hồ sơ chuyển nhượng để thực hiện bút toán chuyển nhượng: ghi tăng/gảm cổ phần trên Sổ cổ đông.
Trường hợp người nhận chuyển nhượng đã có Sổ cổ đông: công ty cổ phần ủy quyển cho công ty chứng khoán ký phần xác nhận trên Sổ cổ đông.
Trường hợp cấp phát mới Sổ cổ đông: bộ phận quản lý sổ cổ đông in đầy đủ thông tin lên Sổ cổ đông theo mẩu quy định của công ty, sau đó tập hợp chuyển các hồ sơ chuyển nhượng và Sổ cổ đông mới để lấy chử ký của Chủ tịch Hội Đồng Quản trị công ty trên sổ cổ đông. Sau khi ký xác nhận các hồ sơ chuyển nhượng và Sổ cổ đông mới được chuyển trả lại toàn bộ cho bộ phận quản lý sổ cổ đông .
Đối với người chuyển nhượng: thu lại Sổ chứng nhận cổ đông và huỷ Sổ cổ đông nếu chuyển nhượng toàn bộ số lượng cổ phần sở hữu.
Bước 6: Cấp/trả Sổ cổ đông
Bộ phận quản lý sổ cổ đông cấp/ trả Sổ cổ đông cho bên chuyển nhượng và bên được chuyển nhượng sau khi đã hoàn tất các thủ tục trên.
Đối với những công ty cổ phần sử dụng dịch vụ quản lý “Sổ cồ đông và hỗ trợ thủ tục chuyển nhượng” của công ty chứng khoán. Bộ phân quản lý sổ cổ đông của công ty cổ phần sẽ là công ty chứng khoán, tất cả các khâu nhận hồ sơ, kiểm tra, in Sổ cổ đông cho khách hàng sẽ do công ty chứng khoán thực hiện.
2.2. Chuyển nhượng gián tiếp
Cổ phần được giao dịch trên Sở giao dịch chứng khoán:
Thị trường chứng khoán tập trung ( Sở giao dịch chứng khoán) – là nơi các nhà môi giới thực hiện cuộc đấu giá mua – bán chứng khoán cho khách hàng của họ. Thị trường này hoạt động theo đúng các quy định của pháp luật, là nơi mua bán các loại chứng khoán đã được đăng biểu hay đặc biệt được biệt lệ.
Chứng khoán đăng biểu là chứng khoán đã được cơ quan có thẩm quyền cho phép bảo đảm, phân phối và mua bán qua trung gian, tức là đã hội đủ tiêu chuẩn quy định.
Chứng khoán biệt lệ là chứng khoán do chính phủ hoặc các cơ quan công quyền phát hành và bảo đảm. Loại chứng khoán này được miễn giấy phép của cơ quan có thẩm quyền.
Điều kiện niêm yết chứng khoán tại sở giao dịch chứng khoán:
Là công ty cổ phần có vốn điều lệ đã góp tại thời điểm đăng ký niêm yết từ 80 tỷ đồng Việt Nam trở lên tính theo giá trị ghi trên sổ kế toán;
Hoạt động kinh doanh hai năm liền trước năm đăng ký niêm yết phải có lãi và không có lỗ luỹ kế tính đến năm đăng ký niêm yết;
Không có các khoản nợ quá hạn chưa được dự phòng theo quy định của pháp luật; công khai mọi khoản nợ đối với công ty của thành viên Hội đồng quản trị, Ban kiểm soát, Giám đốc hoặc Tổng Giám đốc, Phó Giám đốc hoặc Phó Tổng Giám đốc, Kế toán trưởng, cổ đông lớn và những người có liên quan;
Tối thiểu 20% cổ phiếu có quyền biểu quyết của công ty do ít nhất 100 cổ đông nắm giữ;
Cổ đông là thành viên Hội đồng quản trị, Ban kiểm soát, Giám đốc hoặc Tổng Giám đốc, Phó Giám đốc hoặc Phó Tổng Giám đốc và Kế toán trưởng của công ty phải cam kết nắm giữ 100% số cổ phiếu do mình sở hữu trong thời gian 6 tháng kể từ ngày niêm yết và 50% số cổ phiếu này trong thời gian 6 tháng tiếp theo, không tính số cổ phiếu thuộc sở hữu Nhà nước do các cá nhân trên đại diện nắm giữ;Có hồ sơ đăng ký niêm yết cổ phiếu hợp lệ.
Trình tự giao dịch mua bán, chuyển nhượng chứng khoán trên sở giao dịch chứng khoán:
Bước 1:Nhà đầu tư mở tài khoản giao dịch và thực hiện ký quỹ.
Mở tài khoản giao dịch
Nhà đầu tư bắt đầu việc giao dịch của mình bằng cách liên hệ với công ty chứng khoán là thành viên của Sở giao dịch chứng khoán để kí hợp đồng giao dịch. Công ty chứng khoán mở tài khoản giao dịch cho khách hàng. Nhà đầu tư chứng khoán cần điền đầy đủ thông tin vào giấy yêu cầu mở tài khoản với những nội dung sau: số chứng minh thư, số điện thoại, phương thức giao dịch (chữ kí, dấu,…).
Số chứng minh thư này sẽ là mã số kinh doanh của nhà đầu tư, đồng thời là mả số quản lí của công ty chứng khoán về nhà đầu tư trên Sở giao dịch chứng khoán.
Sau đó, nhà đầu tư sẽ kí hợp đồng giao dịch với công ty chứng khoán trên cơ sở mẫu hợp đồng mở tài khoản ký giữa công ty chứng khoán và khách hàng ban hành kèm theo Quyết định số 04/1998 của Ủy ban chứng khoán Nhà nước về quy chế tổ chức và hoạt động của công ty chứng khoán.
Nội dung hợp đồng là khách hàng đề nghị bên công ty chứng khoán mở một tài khoản chứng khoán (gọi là tài khoản) đứng tên khách hàng để lưu giữ, quản lí tiền, chứng khoán và thực hiện giao dịch chứng khoán cho khách hàng thông qua Sở giao dịch chứng khoán. Mỗi nhà đầu tư chỉ được mở tài khoản tại một công ty chứng khoán. Do vậy, trước khi định mở tài khoản giao dịch chứng khoán, nhà đầu tư nên tự lựa chọn công ty chứng khoán để mở tài khoản. Việc mở tài khoản chứng khoán hiện nay được các công ty chứng khoán thực hiện miễn phí, đồng thời khách hàng cũng không phải ký quỹ, đặt cọc khoản tiền nào.
Ký quỹ
Trước khi tiến hành giao dịch, nhà đầu tư phải kí quỹ tại công ty chứng khoán. Trong tài khoản giao dịch chứng khoán của khách hàng tại Công ty phải có đủ 100% giá trị chứng khoán đặt mua hoặc 100% số lượng chứng khoán đặt bán.
Bước 2: Nhà đầu tư đặt lệnh giao dịch
Đặt lệnh
Nhà đầu tư muốn mua hay bán chứng khoán sẽ đến gặp công ty chứng khoán. Người đầu tư có thể sử dụng nhiều phương tiện khác nhau để đặt lệnh như đặt lệnh trực tiếp bằng phiếu lệnh (order slip), điện thoại, fax.
Khách hàng kí hợp đồng ủy thác mua hoặc bán chứng khoán với công ty chứng khoán.
Khách hàng đặt lệnh mua, bán chứng khoán với phòng tiếp thị bằng phiếu lệnh. Nội dung chi tiết của lệnh gồm có: Lệnh mua hay lệnh bán; tên chứng khoán – mã số chứng khoán; số lượng chứng khoán; giá.
Công ty chứng khoán rà soát lại phiếu lệnh, rà soát lại tính hợp lệ, hợp pháp của phiếu lệnh trước khi chuyển sang Sở giao dịch chứng khoán.
Công ty chứng khoán chuyển lệnh của nhà đầu tư cho đại diện của công ty tại sở giao dịch chứng khoán để nhập vào hệ thống giao dịch của sở giao dịch chứng khoán.
Huỷ lệnh:
Nhà đầu tư có thể thực hiện việc huỷ lệnh giao dịch đã đặt trước đó với điều kiện lệnh giao dịch đó chưa được khớp hay mới chỉ được khớp một phần.
Sửa lệnh:
Nhà đầu tư có thể thực hiện việc sửa lệnh giao dịch đã đặt trước đó với điều kiện lệnh giao dịch đó chưa được khớp. Nhà đầu tư phải lập phiếu sửa lệnh và gửi cho công ty chứng khoán. Nội dung của lệnh sửa bao gồm các thông tin của lệnh gốc và các thông tin cần sửa. Khi đó,đại diện giao dịch tại sàn giao dịch sẽ thực hiện hai công việc: thứ nhất là hủy lệnh gốc của nhà đầu tư, sau đó nhập nội dung của lệnh sửa. khi đó lệnh sửa của nhà đầu tư được hệ thống coi là lệnh giao dịch mới.
Bước 3: Sở giao dịch thực hiện khớp lệnh:
Sở giao dịch chứng khoán thực hiện khớp lệnh mua và lệnh bán và thông báo kết quả. Giá khớp được thông báo công khai và là giá thống nhất của bên mua và bên bán.
Giao dịch khớp lệnh định kì: là phương thức giao dịch dựa trên cơ sở tập hợp tất cả các lệnh mua, bán trong khoảng thời gian nhất định và tạo ra giá khớp. Mức giá này được xác định dựa trên các nguyên tắc sau:
Là mức giá mà tại đó khối lượng giao dịch là lớn nhất.
Nếu có nhiều mức giá thoả điều kiện trên thì mức giá nào trùng hoặc gần nhất với giá thực hiện của lần khớp lệnh trước đó sẽ được chọn.
Nếu vẫn có nhiều mức giá thoả mãn điều kiện trên thì mức giá cao nhất sẽ được chọn.
Giao dịch khớp lệnh liên tục: là phương thức giao dịch thực hiện trên cơ sở lệnh của nhà đầu tư sau khi được nhập vào hệ thống sẽ được khớp ngay với các lệnh đối ứng (nếu có) ở các mức giá tốt nhất đã chờ sẵn trong hệ thống.
Bước 4: Thông báo kết quả giao dịch:
Sở giao dịch chứng khoán sau mỗi đợt khớp lệnh sẽ thông báo kết quả cho lệnh được khớp đến công ty chứng khoán. Công ty chứng khoán xác nhận với đại diện giao dịch về kết quả giao dịch sau khớp lệnh. Chi tiết xác nhận gồm có: Tên chứng khoán; khối lượng mua và bán; tên (mã số) của bên thành viên đối tác; ngày, thời gian giao dịch được thực hiện; số hiệu của lệnh được thực hiện; các chi tiết cần thiết khác theo quy định của sở giao dịch chứng khoán.
Công ty chứng khoán chuyển kết quả giao dịch để thực hiện thanh toán tại Trung tâm lưu ký chứng khoán và thanh toán bù trừ.
Công ty chứng khoán thông báo kết quả giao dịch cho các nhà đầu tư.
Bước 5: Hoàn thành quá trình chuyển nhượng:
Nhà đầu tư nhận được chứng khoán (nếu là người mua) hoặc tiền (nếu là người bán) trên tài khoản của mình tại công ty chứng khoán sau 3 ngày làm việc kể từ ngày mua bán chứng khoán nếu quy định vể thời gian thực hiện thanh toán bù trừ chứng khoán là T+3.
Cổ phần giao dịch mua bán, chuyển nhượng tại thị trường phi tập trung
Với sự phát triển không ngừng của nền kinh tế trong nước và thế giới.. Thị trường OTC (Over the counter) Việt Nam phát triển theo mô hình phát triển của thị trường giao dịch cổ phiếu OTC của các nước trên thế giới. Tất cả các giao dịch các cổ phiếu chưa đủ điều kiện niêm yết của các công ty đại chúng được giao dịch qua thị trường OTC với sự giám sát của các cơ quan chức năng và tổ chức giao dịch theo các hình thức như một cổ phiếu đã niêm yết. Tuy nhiên đối với cổ phiếu giao dịch trên sàn OTC có một số điểm khác biệt so với giao dịch cổ phiếu trên thị trường chứng khoán tập trung về cách thức giao dịch và đặt lệnh như: không có có biên độ khống chế về giá giao dịch cũng như giá tham chiếu. Thời gian khớp lệnh của hệ thống kéo dài từ 10-15 giờ/ngày. Nhà đầu tư được phép mua và bán cùng 1 loại cổ phiếu trong cùng 1 ngày giao dịch. Ở sàn chứng khoán tập trung thì lệnh mua bán chứng khoán sẽ được hệ thống máy tính so khớp, còn ở sàn giao dịch OTC thì các đại diện giao dịch chọn lệnh để khớp.
Cách thức giao dịch sẽ được thực hiện như sau:
Cả người mua và người bán đều mở tài khoản tại sàn giao dịch OTC. Sau khi người mua đặt lệnh mua cổ phiếu, người bán đặt lệnh bán cổ phiếu thì các phiếu lệnh này sẽ được người giao dịch đưa vào thị trường OTC để thực hiện lệnh. Nếu là một lệnh mua chẳng hạn, thì bộ phận chuyên trách mua bán sẽ liên hệ với một số nhà tạo giá (các dealers) để thu xếp giao dịch (mua chứng khoán) cho khách hàng với giá chào bán (offer) thấp nhất. Khi giá mua cao nhất của khách hàng A khớp với giá bán thấp nhất của khách hàng B thì việc mua bán thực hiện , người đại diện giao dịch thương lượng các điều khoản giao dịch cần thiết và giao dịch kết thúc.
Ví dụ: Khách hàng A muốn mua cổ phiếu 100 cổ phiếu của công ty XYZ thì khách hàng A sẽ đặt lệnh mua 100 cổ phiếu của XYZ và người môi giới ghi phiếu lệnh. Sau đó phiếu lệnh này sẽ được chuyển đến người giao dịch trên thị trường OTC của công ty. Người giao dịch trên thị trường OTC sẽ xác định những người đang nắm giữ chứng khoán của công ty XYZ và có nhu cầu muốn bán (cũng thông qua việc đặt lệnh),để thương lượng các điều khoản của giao dịch như giá bán, số lượng mua. Trông mỗi phiên giao dịch, người giao dịch sẽ ra giá cao nhất sẵn sàng bán và giá thấp nhất của cổ phiếu công ty XYZ mà họ đang nắm giữ. Khi giá mua cao nhất của khách hàng A khớp với giá bán thấp nhất của một khách hàng B nào đó thì việc mua bán được thực hiện và giao dịch kết thúc.
Trường hợp giữa người mua và người bán đã xác định được nhau nhưng vì do điều kiện về khoảng cách 2 người không thể gặp nhau trực tiếp để thực hiện giao dịch được thì có thể thông qua công ty chứng khoán. Người mua và người bán chỉ cần mở tài khoản giao dịch tại công ty chứng khoán, người mua chuyển tiền vào tài khoản của mình. Người mua sẽ ký hợp đồng mua cổ phiếu với công ty chứng khoán, còn công ty chứng khoán sẽ ký hợp đồng mua chứng khoán với người bán cổ phiếu. Mức giá mua bán, số lượng sẽ do người mua và người bán tự thỏa thuận với nhau.
Mọi thủ tục chuyển nhượng sau khi đã có sự thỏa thuận giữa người mua và người bán sẽ do công ty chứng khoán thực hiện giống như giao dịch trên sở giao dịch chứng khoán.
II. Những đóng góp và kiến nghị đối với việc chuyển nhượng cổ phần ở nước ta hiện nay
1. Những ưu điểm và nhược điểm của một số cách thức chuyển nhượng cổ phần theo cách gián tiếp
Ưu và nhược điểm của cách thức chuyển nhượng cổ phần trên sở giao dịch chứng khoán.
Ưu điểm:
Tạo điều kiện thuận lợi cho các cổ đông của doanh nghiệp thực hiện chuyển nhượng cổ phần một cách thuận lợi, nâng cao tình thanh khoản cho cổ phần của các doanh nghiệp này.
Thông tin được minh bạch giúp giảm thiểu rủi ro cho các nhà đầu tư khi thực hiện giao dịch trên sở giao dịch chứng khoán. Các báo cáo tài chính hằng năm của các công ty cổ phần đã niêm yết buộc phải được kiểm toán, đồng thời, các giao dịch đều được thực các rủi ro như lừa đảo, mua bán khống như cách giao dịch thông qua thị trường phi tập trung.
Nhược điểm:
Số lượng công ty cổ phần đủ điều kiện để được niêm yết trên Sở giao dịchchứng khoán còn quá ít nên làm cho thị trường kém sôi động, không đáp ứng được hết nhu cầu của nhà đầu tư.
Rủi ro thường xảy ra trong quá trình nhập lệnh vào hệ thống máy tính của các Broker khi khối lượng giao dịch nhiều.
2. Những ưu diểm và nhược điểm của cách thức chuyển nhượng cổ phần qua thị trường phi tập trung
Ưu điểm:
Tạo tính thanh khoản cho các cổ phiếu của các công ty cổ phần chưa có đủ điều kiện để niêm yết chứng khoán.
Tạo điều kiện thuận lợi cho người mua và ngưới bán cổ phiếu có thể giao dịch mua, bán, chuyển nhượng cổ phần dù ở bất cứ đâu, bất cứ lúc nào.
Khối lượng cổ phiếu giao dịch lớn, đa dạng, đáp ứng nhu cầu của các nhà đầu tư.
Nhược điểm:
Khách hàng giao dịch trên thị trường OTC gặp nhiều khó khăn trong vấn đề thu thập và tiếp cận thông tin.
Các nguồn thông tin không đủ căn cứ vững chắc và độ tin cậy để giúp nhà đầu tư đưa ra quyết định chính xác. Trong khi đó, việc các thủ tục sang tên chuyển nhượng cổ phiếu lại chỉ được thực hiện sau khi đã đóng tiền đầy đủ. Vì thế việc mua bán cổ phiếu này mang rất nhiều yếu tố rủi ro cho người mua.
Dễ xảy ra tranh chấp trong quá trình mua bán, chuyển nhượng cổ phiếu. Nguyên nhân chủ yếu là người mua và người bán không thỏa thuận rõ ràng trong hợp đồng chuyển nhượng cồ phiếu. Trường hợp hay xảy ra như:
Tranh chấp hay thiệt hại về quyền mua cổ phiếu. Trước khi phát hành cổ phần tăng vốn, công ty tiến hành chốt danh sách cổ đông. Tại thời điểm đó, những ai sở hữu cổ phần nằm trong danh sách cổ đông của công ty sẽ được mua thêm cổ phiếu mới. Với những người mua cổ phiếu trong giai đoạn giao thời hoặc khi danh sách cổ đông đã được chốt, nếu không biết thì dù tiền đã thanh toán cho người bán, cổ phiếu đã nắm giữ, nhưng chưa làm xong thủ tục chuyển nhượng, người mua vẫn mất quyền mua, quyền mua cổ phiếu mới vẫn thuộc về người bán.
Tranh chấp hay thiệt hại về cổ tức. Cổ tức được chia cho cổ đông dựa trên số lượng cổ phần họ đang nắm giữ. Thông thường, công ty chia cổ tức sau khi kết thúc năm tài chính, một số công ty tạm ứng cổ tức sau 6 tháng. Vì thế người mua mặc dù vẫn đang nắm trong tay cổ phiếu của công ty nhưng lại không được nhận cổ tức của công ty.
Rủi ro trong mua bán cổ phần chưa được chuyển nhượng.Có những cổ phần theo quy định nội bộ của công ty, sau 1 năm mới được chuyển nhượng, nhưng nhiều nhà đầu tư không nắm được thông tin nên đã mua. Và trong thời hạn 1 năm đó, các quyền lợi như mua thêm cổ phần tăng vốn, nhận cổ tức… vẫn thuộc về người đứng tên sở hữu cổ phần (người bán), còn người đã bỏ tiền ra mua thì bị chiếm đoạt quyền lợi.
Rủi ro trong giao dịch nhận chuyển nhượng quyền mua. Trong các đợt phát hành thêm cổ phần mới để tăng vốn, cổ đông hiện hữu, cổ đông chiến lược hay cán bộ công nhân viên được quyền mua cổ phần. Khi đó, nhiều người do không huy động được tiền hàng.của giá thị trường thời điểm đó. Nhà đầu tư mới thấy giá thấp, hấp dẫn thường chấp nhận mua. Nhưng từ khi nộp tiền để mua cổ phần cho đến khi nhận được cổ phần là khoảng thời gian khá dài, nên đến khi nhận được cổ phần thì cổ phần vẫn đứng tên chủ sở hữu là người bán. Khi đó, nếu giá cổ phiếu đứng yên, giảm hay người bán nghiêm túc, đứng đắn thì việc làm thủ tục chuyển nhượng không vấn đề gì. Ngược lại, gặp phải người không trọng chữ tín thì dễ dàng bị đánh tháo và hứa hẹn trả lại số tiền trước kia đã nhận, kèm với lãi suất ngân hoặc vì nhiều lý do khác đã bán quyền mua cổ phần. Giá bán quyền mua thường thấp hơn thị trường phi tập trung
3. Thực trạng và giải pháp đối với chuyển nhượng cổ phần trong công ty cổ phần
Những hạn chế nghị định 01 trong chuyển nhượng cổ phần.
Ngày 4/1, Thủ tướng đã ban hành
Nghị định trên nêu rõ, hạn chế chuyển nhượng cổ phần phát hành riêng lẻ thời hạn 1 năm, các đợt chào bán phải cách nhau tối thiểu là 6 tháng.
Đối tượng áp dụng của nghị định này là các công ty cổ phần, các doanh nghiệp chuyển đổi thành công ty cổ phần – ngoại trừ các doanh nghiệp 100% vốn nhà nước chuyển đổi thành công ty cổ phần. Công ty cổ phần thành lập và hoạt động theo pháp luật nước ngoài không được chào bán cổ phần trên lãnh thổ Việt Nam, trừ trường hợp điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên có quy định khác.
Cơ quan Nhà nước có thẩm quyền quản lý chào bán cổ phần riêng lẻ gồm: Ngân hàng Nhà nước (trong trường hợp tổ chức chào bán là tổ chức tín dụng); Bộ Tài chính (doanh nghiệp bảo hiểm cổ phần); Ủy ban Chứng khoán Nhà nước (công ty cổ phần chứng khoán, công ty cổ phần quản lý quỹ, công ty đại chúng (trừ các công ty đại chúng là doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực tín dụng, bảo hiểm); sở kế hoạch và đầu tư, ban quản lý khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao, khu kinh tế (tổ chức chào bán là các công ty cổ phần còn lại)
Các hạn chế của Nghị định 01:
Đối chiếu quy định về hạn chế chuyển nhượng cổ phần trong trường hợp đã nêu tại Điều 8 của
Luật Doanh nghiệp 2005 đã quy định rất rõ tại Điều 77 là “Cổ đông có quyền tự do chuyển nhượng cổ phần của mình cho người khác, trừ trường hợp quy định tại Khoản 3 Điều 81 và Khoản 5 Điều 84 của Luật này” (trích Mục d Khoản 1 Điều 77). Như vậy, sẽ chỉ có 2 trường hợp bị hạn chế chuyển nhượng cổ phần của cổ đông theo quy định tại Điều 81 của Luật Doanh nghiệp, đó là trường hợp cổ phần ưu đãi biểu quyết (Khoản 3) và cổ phần phổ thông của cổ đông sáng lập (Khoản 5), còn lại thì tất cả các cổ đông đều có quyền tự do chuyển nhượng cổ phần của mình cho cổ đông khác hoặc cho người không phải là cổ đông của công ty.
Trong khi đó, Nghị định số 01/2010/NĐ-CP là một văn bản dưới Luật lại quy định thêm một trường hợp hạn chế chuyển nhượng cổ phần của cổ đông hiện hữu là số cổ phần được chào bán trong đợt phát hành và chào bán riêng lẻ. Mặt khác, hiện tại, Nghị định 01 yêu cầu doanh nghiệp chỉ được chào bán sau 15 ngày nếu không nhận được ý kiến của cơ quan nhà nước có thẩm quyền kể từ ngày nộp hồ sơ hợp lệ và đầy đủ; các đợt chào bán phải cách nhau tối thiểu 6 tháng; doanh nghiệp phải sử dụng vốn đúng theo phương án đã được thông qua và đã đăng ký với cơ quan có thẩm quyền; tiền mua chứng khoán chuyển vào tài khoản phong tỏa tại ngân hàng cho đến khi hoàn tất việc chào bán.
Như vậy, với các quy định nêu trên, Nghị định 01 đã can thiệp quá sâu vào hoạt động chào bán của doanh nghiệp. Không có cơ sở nào để hạn chế thời gian chuyển nhượng cổ phiếu phát hành riêng lẻ là 1 năm. Ưu điểm của việc góp vốn vào công ty cổ phần so với công ty trách nhiệm hữu hạn là nhà đầu tư có quyền tự do chuyển nhượng. Việc hạn chế chuyển nhượng chỉ có thể do bên mua tự nguyện và thỏa thuận với bên bán theo quy định dân sự.
Thời hạn 6 tháng giữa hai đợt chào bán riêng lẻ sẽ hạn chế doanh nghiệp huy động vốn thực hiện các ý tưởng kinh doanh mới. Trong thời gian chờ đợi này, công ty cổ phần có thể phải vay vốn ngân hàng để thực hiện kế hoạch kinh doanh thay vì phát hành cổ phiếu để tăng vốn chủ sở hữu, một nguồn vốn có khả năng chia sẻ cơ hội cũng như những rủi ro trong kinh doanh. Việc chuyển tiền mua cổ phần chào bán riêng lẻ cũng là quyền thỏa thuận giữa bên mua và bên bán, không cần đến sự can thiệp của ngân hàng phong tỏa tài khoản trong thời gian hoàn tất phát hành.
Giải pháp khắc phục Nghị định 01:
Để khắc phục những hạn chế của Nghị định 01 hiện thời Ban soạn thảo Nghị định thay thế Nghị định 139 do Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương (Thuộc Bộ Kế hoạch và Đầu tư) chủ trì cho biết, Nghị định mới quy định, “tất cả các Công ty cổ phần đều có quyền phát hành cổ phần riêng lẻ, không quy định điều kiện hạn chế chuyển nhượng trước và sau phát hành”.
Nghị định mới thay thế Nghị định 139 hướng dẫn Công ty cổ phần được thực hiện việc chào bán riêng lẻ ngay sau khi đã thông báo với cơ quan có thẩm quyền là Phòng đăng ký kinh doanh và phải sử dụng số vốn phát hành đúng như phương án đã thông báo với cơ quan đăng ký kinh doanh.
Về mặt thủ tục, Nghị định thay thế Nghị định 139 cũng đơn giản hóa thủ tục chào bán riêng lẻ. Công ty cổ phần chỉ cần thông báo cho cơ quan đăng ký kinh doanh thay vì phải làm thủ tục đăng ký.
Một trong những mục tiêu của Nghị định thay thế Nghị định 139 hướng dẫn chi tiết thi hành Luật Doanh nghiệp là đơn giản hóa thủ tục chào bán riêng lẻ, nhằm tạo điều kiện tốt nhất cho Công ty cổ phần huy động vốn. Công ty cổ phần chỉ có trách nhiệm thông báo thông tin về đợt chào bán đến cơ quan có thẩm quyền theo dõi là Phòng đăng ký kinh doanh. Cơ quan quản lý có trách nhiệm theo dõi và giám sát hoạt động sử dụng vốn của doanh nghiệp để có phát hiện sai phạm trong trường hợp doanh nghiệp sử dụng sai mục đích.
Nghị định 01 ra đời với những điều kiện chặt chẽ về chào bán riêng lẻ đã ảnh hưởng phần nào đến hoạt động phát hành riêng lẻ của các doanh nghiệp, đặc biệt trong thời điểm doanh nghiệp có nhu cầu huy động vốn khá cao để tìm nguồn vốn thay thế nguồn vốn vay ngân hàng lãi suất cao. Nghị định thay thế Nghị định 139 hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Doanh nghiệp sẽ có những điểm khác biệt về mặt pháp lý giữa hai văn bản quy phạm. Các chuyên gia cho rằng, theo quy định về hiệu lực văn bản pháp luật, hai vản bản cùng cấp có quy định khác nhau thì văn bản sau sẽ có quyền phủ định các quy định của văn bản ban hành trước. Như vậy hy vọng, nghị định mới sớm ban hành tạo điều kiện thuận lợi hơn cho hoạt động chào bán riêng lẻ của Công ty cổ phần.
Thuế Thu nhập cá nhân từ việc chuyển nhượng Chứng khoán.
Theo điều 3
Theo đó, thuế suất đối với thu nhập từ chuyển nhượng chứng khoán là 20%/thu nhập tính thuế cả năm chỉ áp dụng đối với trường hợp đối tượng nộp thuế đã thực hiện đúng quy định của pháp luật về kế toán, hóa đơn chứng từ, xác định thu nhập tính thuế quy định tại điều 16 Nghị định này và đăng ký thực hiện ổn định với cơ quan thuế từ tháng 12 năm trước.
Tuy nhiên, kể từ khi dự luật Thuế thu nhập cá nhân được tổ chức lấy ý kiến công khai, thì việc thu thuế thu nhập cá nhân đối với hoạt động chuyển nhượng chứng khoán đã không nhận được sự ủng hộ của các nhà đầu tư tài chính. Lí do như sau:
Thứ nhất, việc thu Thuế thu nhập cá nhân từ lợi nhuận của hoạt động chuyển nhượng vốn trong bối cảnh thị trường đang có nhiều biến động có thể sẽ gây nản lòng của các nhà đầu tư.
Cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu lan rộng, từ cuối 2007 kéo dài đến sang hai năm 2008, 2009, đã tác động không nhỏ đến nền kinh tế ở Việt Nam. Trong suốt thời kỳ khủng hoảng của thị trưòng tài chính, Chính phủ đã triển khai nhiều giải pháp để kiềm chế lạm phát, vực dậy nền kinh tế trong nước, trong đó giải pháp về tài chính tiền tệ nói chung và giải pháp về thị trưòng chứng khoán nói riêng được đặt biệt quan tâm. Trong khi đó, Luật thuế thu nhập cá nhân đối với hoạt động chuyển nhượng chứng khoán lại ra đời trong bối cảnh thị trường tài chính nứớc ta đang rất bất ổn, lại có vẻ như đi ngược lại những giải pháp, chính sách nhằm cải thiện nền kinh tế. Năm 2009, Nhà nước đã triển khai mạnh mẽ chương trình cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước, điều này đồng nghĩa với thị trường chứng khoán phải chịu thêm sức ép lớn về lượng cung, trong khi cầu chưa có khả năng phục hồi mạnh. Mặt khác, xét về tầm ảnh hưởng thì thị trường tài chính, trong đó có thị trường chứng khoán có tính lan toả cao nhất, sự suy thoái thị trường này chắc chắn có tầm ảnh hưởng rộng, mà theo đó việc thu Thuế thu nhập cá nhân trên hoạt động chuyển nhượng chứng khoán sẽ tác động không tốt đến sự phát triển của thị trường chứng khoán – tài chính, gây nản lòng các nhà đầu tư chứng khoán.
Thứ hai, hai cách tính Thuế thu nhập cá nhân có thể gây lợi cho các nhà đầu tư vì ngay khi chuyển nhượng, nhà đầu tư chỉ được nộp thuế theo 1 phương pháp tính thuế duy nhất.
Căn cứ vào điều 16, điều 17 của
Thuế suất 20% được áp dụng cho kỳ tính thuế theo năm, được bù trừ lỗ lãi giữa các lần chuyển nhượng, trường hợp bị lỗ thì sẽ được chuyển lỗ trong 5 năm tiếp theo. Trong năm, các công ty chứng khoán có trách nhiệm tạm khấu trừ thuế 0,1% trên giá chuyển nhượng, cuối năm cá nhân thực hiện kê khai, quyết toán cho thu nhập cả năm. Nếu cá nhân chọn nộp thuế theo phương pháp này thì đầu năm thực hiện đăng ký với cơ quan thuế.
Thuế suất 0,1% được áp dụng trên giá trị từng lần chuyển nhượng chứng khoán. Nếu lựa chọn phương pháp này, cá nhân không cần đăng ký với cơ quan thuế. Công ty chứng khoán thực hiện khấu trừ và nộp thay tiền thuế của nhà đầu tư vào ngân sách nhà nước, đây cũng chính là số thuế thu nhập cá nhân từ chuyển nhượng chứng khoán của nhà đầu tư.
Việc lựa chọn phương pháp kê khai, nộp thuế theo thuế suất toàn phần 20% sẽ thuận tiện cho các nhà đầu tư có danh mục đầu tư gồm nhiều cổ phiếu, giao dịch nhiều lần trong năm, vì chỉ phải tính toán lãi lỗ và quyết toán một lần cho toàn bộ các giao dịch trong cả năm. Ngược lại, đối với các cá nhân có số lần thực hiện chuyển nhượng cổ phần ít thì áp dụng phương pháp tính thuế ấn định 0.1% lại có lợi hơn.
Mặc dù, theo Thông tư 84/2009/TT-BTC, trong mọi trường hợp chuyển nhượng chứng khoán, không phân biệt nộp thuế theo thuế suất ấn định 0,1% hay biểu thuế toàn phần với thuế suất 20%, công ty chứng khoán hoặc đơn vị phát hành chứng khoán đều phải khấu trừ thuế ấn định trước khi thanh toán cho người chuyển nhượng.
Có nghĩa là, cá nhân chuyển nhượng chứng khoán, dù đã đăng ký nộp thuế theo biểu thuế toàn phần với thuế suất 20%, thì vẫn phải tạm bị khấu trừ 0,1% trên giá chuyển nhượng từng lần.
Trường hợp năm đầu tư bị lỗ hoặc số thuế phải nộp lớn hơn phần kê khai tạm nộp theo mức ấn định 0,1% theo từng lần giao dịch trong suốt cả năm, thì nhà đầu tư có thể thực hiện các thủ tục xin hoàn số thuế đã nộp thừa trong năm. Theo dự án cải cách thủ tục hành chính trong công tác thuế, hồ sơ, thủ tục và thời gian kiểm tra hoàn thuế đang và sẽ được đơn giản hóa hơn rất nhiều, nhằm tạo điều kiện thuận lợi hơn cho người nộp thuế được hoàn thuế.
Đây là một điểm bất lợi cho các nhà đầu tư chứng khoán đăng kí biểu thuế 20% vì giả sử hợp đồng giao dịch của nhà đầu tư bán ra có giá trị thấp hơn giá trị khi mua vào (tức là khi nhà đầu tư bị lỗ) thì vẫn bị khấu trừ thuế 0,1% giá trị giao dịch và chỉ được quyết toán vào cuối năm để xin được hoàn thuế, điều này có nghĩa một phần vốn của họ đã bị giữ lại, thay vì có thể sử dụng để đầu tư vào các hạng mục khác.
Xét trên tổng thể những quy phạm điều chỉnh của cả bộ Luật Thuế thu nhập cá nhân và xét trên mối tương quan giữa thuế thu nhập cá nhân với các sắc thuế khác thì việc không thu thuế thu nhập cá nhân đối với chuyển nhượng chứng khoán sẽ gây ra những hậu quả khôn lường, cả tâm lý và thực tiễn.
Thứ nhất, nếu chỉ vì khuyến khích sự phát triển của thị trường chứng khoán mà không thu Thuế thu nhập cá nhân đối với chuyển nhượng chứng khoán sẽ gây nên một sự so sánh rằng: hoạt động đầu tư vốn có được miễn thuế thu nhập cá nhân không, bởi đây cũng là kênh huy động vốn hiệu quả của nền kinh tế.
Thứ hai, hiện nay các doanh nghiệp có thu nhập từ đầu tư chứng khoán đang chịu thuế thu nhập doanh nghiệp với mức thuế suất 25%, cao hơn nhiều so với mức thuế suất 20% tính trên thu nhập chịu thuế cả năm của cá nhân nhà đầu tư. Do đó, nếu dừng thu Thuế thu nhập cá nhân đối với chuyển nhượng chứng khoán sẽ tạo điều kiện để các doanh nghiệp đầu tư chứng khoán so bì, kiến nghị.
Thứ ba, là xét về mặt xã hội, các nhà đầu tư chứng khoán là người có thu nhập cao, nên không thu thuế đối với đối tượng này thì sẽ là sự bất công đối với hàng triệu hộ kinh doanh nhỏ lẻ và hàng chục triệu người làm công ăn lương trong bối cảnh cuộc sống vô cùng khó khăn hiện nay.
Cuối cùng, việc hoãn thu Thuế thu nhập cá nhân đối với chuyển nhượng chứng khoán sẽ là một tiền lệ không tốt, ảnh hưởng lớn đến việc ban hành các sắc thuế mới trong tương lai.
Do những điều kiện trên, Chính phủ đã thực hiện hoãn thu Thuế thu nhập cá nhân đối với hoạt động chuyển nhượng chứng khoán trong năm 2009, và bắt đầu áp dụng vào ngày 1/1/2010, khi nền kinh tế – tài chính nước ta đã phần nào có dấu hiệu phục hồi.
Chuyển nhượng chứng khoán thông qua môi giới tự do. Thực trạng của việc chuyển nhượng chứng khoán thông qua môi giới tự do
Thực tế, ngoài thị trường còn xảy ra một hình thức chuyển nhượng cổ phần khá là phổ biến đối với cổ phần của các công ty chưa đủ điều kiện để niêm yết trên sở giao dịch chứng khoán, đó chính là giao dịch chuyển nhượng qua các nhà môi giới tự do.
Có một câu chuyện xảy ra như sau, vào một buổi chiều thứ sáu tại một công ty chứng khoán trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh. Theo lời kể của những nhân chứng có mặt tại công ty chứng khoán , một nhà đầu tư đã mua cổ phiếu OTC của ngân hàng Eximbank qua một nhà “cò” (môi giới tự do) vào cuối giờ chiều. sau khi trả tiền, nhà đầu tư cầm giấy biên nhận hồ sơ chuyển nhương cổ phiếu Eximbank kèm biên lai thu phí chuyển nhượng đến gặp nhân viên môi của công ty chứng khoán ở lầu trên đề nghị đóng dấu của công ty chứng khoán để xác nhận giao dịch. Tại đây, nhân viên công ty chứng khoán kiểm tra và phát hiện đó là giấy biên nhận giả. Nhà đầu tư quay xuống lầu tìm người bán thì người này đã lặn mất tăm.
Giấy biên nhận được xác định là giả mạo chữ ký của thủ quỹ, giao dịch viên, kiểm soát và dấu mộc, phông chữ trên tờ giấy biên nhận giả cũng khác biệt với phông chữ của công ty chứng khoán trên sử dụng. Ngoài ra, giấy biên nhận giả còn thiếu một yếu tố quan trọng là dấu mộc tròn và mã số giao dịch ở phía dưới góc trái và những cái khác mà người giao dịch không phát hiện ra.
Đây là một thực trạng vẫn thường xảy ra cho các nhà đầu tư đối với các giao dịch chuyển nhượng cổ phần thông qua các nhà môi giới tự do.
Việc chuyển nhượng cổ phần thông qua các nhà môi giới tự do sẽ được tiến hành theo cách các cổ đông cũ làm giấy chuyển nhượng cho nhà môi giới tự do (“cò”) nhưng phần “người mua” để trống. Sau khi ký được hợp đồng với người bán, nhiệm vụ của các “cò cổ phiếu” là làm việc với công ty phát hành để công ty ký xác nhận vào
Giải pháp khắc phục thực trạng
Như vậy, từ thực trạng trên cho thấy cần thiết phải có sự điều tiết của Pháp luật đối với hoạt động môi giới tự do, dự thảo Luật chứng khoán về môi giới tự do cần có những điều khoản quy định chặt chẽ hơn đối với các đối tượng này, tăng cường kiểm tra để đưa hoạt động môi giới tuân thủ theo quy định hiện hành. Mặt khác, các nhà đầu tư chứng khoán cần phải chú ý cẩn trọng đối với các giao dịch chuyển nhượng qua môi giới tự do.
Chương IV
KẾT LUẬN
Qua quá trình nghiên cứu và hoàn thiện đề tài, em đã hệ thống tổng quan những quy định hiện hành về chuyển nhượng cổ phần trong công ty cổ phần. Bên cạnh đó, em đã tìm hiểu và phân tích những thực trạng của các quy định,cách thức chuyển nhượng cổ phần trong công ty cổ phần trên thực tế ở Việt Nam hiện nay. Căn cứ vào đó, em đưa ra một số giải pháp để cải thiện những thực trạng đó.
Tóm lại, chuyển nhượng cổ phần trong công ty cổ phần là một hình thức chuyển nhượng khá phức tạp với nhiều cách thức khác nhau. Và từ các vấn đề trên, ta có thể thấy rõ tầm quan trọng của Pháp luật trong nền kinh tế. Pháp luật có vai trò hướng dẫn và điều tiết nền kinh tế, do đó mà các hướng dẫn, quy định cần phải rõ ràng, cụ thế. Điều này không chỉ giúp cho người dân nói chung, các nhà đầu tư nói riêng có thề hiểu rõ, hiểu đúng Luật pháp. Tránh tình trạng những “hạt sạn” nhỏ lại gây ảnh hưởng lớn đến cả một nền kinh tế. Vì mục đích cuối cùng của Luật là hướng nền kinh tế đi lên trên con đường phát triển, chứ không phải kiềm hãm, gây khó khăn trở ngại cho các nhà đầu tư.
Các nhà làm luật cần phải hướng dẫn rõ ràng, cụ thể, cũng như có những biện pháp nhằm hỗ trợ nhà đầu tư một cách tối ưu, mà trong đó công tác tuyên truyền, giải thích của các cơ quan quản lý cần phải đặt lên hàng đầu. Bởi có thấu hiểu đạo lý thì người dân mới đồng thuận và tự giác chấp hành.
Mặt khác, các nhà đầu tư gồm cá nhân và tổ chức cũng cần phải nắm rõ Pháp luật cũng như các thông tin một cách chính xác, đầy đủ để tránh những hiểu lầm, hiểu sai có thể gây ra thiệt hại không đáng cho bản thân và để có một chiến lược đầu tư thành công.