Không có khả năng thanh toán nợ có bị truy cứu trách nhiệm hình sự không? Nghĩa vụ thanh toán nợ khi xác lập giao dịch vay tài sản.
Không có khả năng thanh toán nợ có bị truy cứu trách nhiệm hình sự không? Nghĩa vụ thanh toán nợ khi xác lập giao dịch vay tài sản.
Tóm tắt câu hỏi:
Em có một người anh do làm ăn thua lỗ nên đã mượn giấy nhà của mẹ vợ để đi thế chấp ngân hàng. Nay do không có khả năng trả vậy anh sẽ bị xử phạt ra sao trước pháp luật và có bi truy tố không ? ?
Luật sư tư vấn:
Cám ơn bạn đã gửi câu hỏi của mình đến Ban biên tập – Phòng tư vấn trực tuyến của Công ty LUẬT DƯƠNG GIA. Với thắc mắc của bạn, Công ty LUẬT DƯƠNG GIA xin được đưa ra quan điểm tư vấn của mình như sau:
1. Cơ sở pháp lý:
– Bộ luật hình sự sửa đổi, bổ sung 2009
2. Giải quyết vấn đề:
Trước tiên, căn cứ pháp lý theo Điều 342 Bộ Luật Dân sự 2005 : "Thế chấp tài sản là việc một bên (sau đây gọi là bên thế chấp) dùng tài sản thuộc sở hữu của mình để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự đối với bên kia (sau đây gọi là bên nhận thế chấp) và không chuyển giao tài sản đó cho bên nhận thế chấp" . Như vậy, trong trường hợp của bạn, tài sản thế chấp là giấy nhà ( sổ đỏ), bên thế chấp là anh trai bạn và bên nhận thế chấp là ngân hàng
Việc anh bạn phải chịu trách nhiệm pháp lý như thế nào phụ thuộc vào thỏa thuận, ý chí của mẹ vợ và anh trai bạn. Sẽ có 2 trường hợp như sau:
Trường hợp thứ nhất, nếu anh trai bạn và mẹ vợ có thỏa thuận và hợp đồng rõ ràng về việc đem giấy tờ nhà đi thế chấp ngân hàng thì mẹ vợ trở thành người bảo lãnh cho anh trai bạn trong quan hệ thực hiện nghĩa vụ với ngân hàng. Căn cứ pháp lí theo Điều 361 Bộ luật dân sự 2005 quy định về bảo lãnh như sau:
"Bảo lãnh là việc người thứ ba (sau đây gọi là bên bảo lãnh) cam kết với bên có quyền (sau đây gọi là bên nhận bảo lãnh) sẽ thực hiện nghĩa vụ thay cho bên có nghĩa vụ (sau đây gọi là bên được bảo lãnh), nếu khi đến thời hạn mà bên được bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ. Các bên cũng có thể thoả thuận về việc bên bảo lãnh chỉ phải thực hiện nghĩa vụ khi bên được bảo lãnh không có khả năng thực hiện nghĩa vụ của mình."
Theo như thông tin bạn đã cung cấp, anh của bạn do làm ăn thua lỗ nên đã "mượn" giấy tờ nhà của mẹ vợ để mang đi thế chấp ngân hàng. Trong trường hợp này mẹ vợ sẽ là người bảo lãnh cho anh trai bạn trong nghĩa vụ trả nợ cho ngân hàng. Theo Điều 369 Bộ luật dân sự 2005 : Trong trường hợp đã đến hạn thực hiện nghĩa vụ thay cho bên được bảo lãnh, mà bên bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ thì bên bảo lãnh phải đưa tài sản thuộc sở hữu của mình để thanh toán cho bên nhận bảo lãnh.
Trong trường hợp anh trai bạn không có khả năng trả nợ thì mẹ vợ của anh bạn phải có nghĩa vụ trả nợ cho anh trai bạn bằng tài sản của mình. Sau đó, mẹ vợ có quyền yêu cầu anh trai bạn hoàn trả lại số tiền mà mẹ vợ đã đứng ra trả thay. Nếu khi đó, anh trai bạn vẫn không thể trả, mẹ vợ có thể kiện anh trai bạn ra tòa. Từ đó phát sinh nghĩa vụ dân sự giữa anh trai bạn và mẹ vợ ( cụ thể là nghĩa vụ trả nợ) và trách nhiệm dân sự sẽ phát sinh nếu anh bạn không trả nợ cho mẹ vợ.
Trường hợp thứ hai, nếu anh trai bạn và mẹ vợ bạn không có sự thỏa thuận về việc lấy số đỏ thế chấp ngân hàng, nghĩa là mẹ vợ bạn không hề biết việc anh bạn đem sổ đỏ đi thế chấp ngân hàng thì hành vi của anh trai bạn có thể cấu thành tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
Tại Điều 139 Bộ luật hình sự sửa đổi, bổ sung 2009 quy định về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản như sau:
Điều 139. Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
1. Người nào bằng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản của người khác có giá trị từ hai triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới hai triệu đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm:
a) Có tổ chức;
b) Có tính chất chuyên nghiệp;
c) Tái phạm nguy hiểm;
d) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn hoặc lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức;
đ) Dùng thủ đoạn xảo quyệt;
e) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm mươi triệu đồng đến dưới hai trăm triệu đồng;
g) Gây hậu quả nghiêm trọng…"
>>> Luật sư tư vấn pháp luật trách nhiệm khi không thanh toán nợ: 1900.6568
Xét về hành vi của anh trai bạn, thứ nhất, anh trai bạn đã dùng thủ đoạn gian dối là đưa ra thông tin giả (không đúng sự thật) nhưng làm cho mẹ vợ anh trai bạn tin đó là thật và giao tài sản cho anh bạn. Thứ hai, về chiếm đoạt tài sản, được hiểu là hành vi chuyển dịch một cách trái pháp luật tài sản của người khác thành của mình.
Dựa vào những căn cứ trên, anh trai bạn có thể bị truy tố trách nhiệm hình sự theo Điều 139 Bộ luật hình sự sửa đổi, bổ sung 2009 và hình phạt cho tội này là bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến mười hai năm đến hai mươi năm, tù chung thân hoặc tử hình tùy thuộc vào tài sản và hành vi đã lừa đảo.