Yếu tố lịch sử và phong tục thể hiện trong nguyên tắc củng cố, giữ vững tình thương yêu và đoàn kết trong gia đình của pháp luật thừa kế.
1. Cơ sở pháp lý:
– Luật hôn nhân và gia đình 2000;
– Nghị quyết 02/HĐTP ngày 19/10/1990;
2. Luật sư tư vấn:
Pháp luật thừa kế Việt Nam luôn có sự kế thừa những yếu tố mang giá trị lịch sử và phong tục truyền thống tốt đẹp của dân tộc từ ngàn xưa để lại. Khi xây dựng luật thừa kế Việt nam hiện đại, những giá trị truyền thống này luôn được củng cố và giữ vững sao cho phù hợp với từng thời kỳ của đất nước. Nguyên tắc củng cố, giữ vững tình yêu thương và đoàn kết trong gia đình của phát luật thừa kế mang đậm dấu của lịch sử và phong tục.
Nguyên tắc này xuất phát từ nguyên tắc chung trong quan hệ dân sự, đó là: việc xác lập, thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự phải bảm đảm giữ gìn bản sắc dân tộc, tôn trọng và phát huy phong tục, tập quán, truyền thống tốt đẹp, tinh thần đoàn kết tương thân, tương ái, mỗi người vì cộng đồng, cộng đồng vì mỗi người và các giá trị đạo đức tốt đẹp của các dân tộc cùng sinh sống trên đất nước Việt nam. Từ truyền thống đoàn kết trong gia đình, từ mục đích của chế độ hôn nhân và gia đình nước ta nhằm:
“Xây dựng những gia đình dân chủ hòa thuận, hạnh phúc trong đó mọi người đoàn kết, thương yêu giúp đỡ nhau tiến bộ”,
tinh thần đoàn kết tương trợ giữa những người trong gia đình cần được giữ vững ngay cả khi những người trong gia đình chết và vấn đề thừa kế được đặt ra. Nguyên tắc này có ý nghĩa rất quan trọng trong việc xác định diện và hàng thừa kế theo pháp luật dựa trên cơ sở huyết thống gần gũi, quan hệ hôn nhân trong việc bảo vệ quyền lợi của người đã thành niên nhưng không có khả năng lao động tại Điều 676 và Điều 669 “Bộ luật dân sự 2015”. Các quy định này của pháp luật hiện hành được xây dựng dựa trên sự kế thừa các quy định trong các thời kỳ trước đó nhưng vẫn mang tính lịch sử, phong tục, thể hiện như sau
* Hàng thừa kế theo quy định của pháp luật thời phong kiến:
Trước năm 1945, pháp luật phong kiến đã có những quy định về hàng thừa kế theo trật tự ưu tiên những người có quan hệ huyết thống thuộc nội tộc với người để lại di sản. Trong giai đoạn từ thế kỷ XV đến thế kỷ XVIII, Bộ luật Hồng Đức đã quy định về thừa kế tại các Điều 374 – 377, 380, 388. Theo quy định của Bộ luật Hồng Đức thì tồn tại hai hàng thừa kế trong đó vợ,chồng và các con đứng hàng thừa kế thứ nhất khi thừa kế di sản tương ứng của chồng,vợ và cha mẹ; cha mẹ đứng hàng thừa kế thứ hai khi thừa kế tài sản của con cái. Còn ông bà không thuộc hàng thừa kế của cháu, vì theo quan niệm thời kỳ này, con cái không có tài sản riêng chừng nào cha mẹ vẫn còn sống. Trong trường hợp con chết mà cha mẹ không còn thì tài sản của con thuộc quyền quản lý của ông bà.
Trong Bộ luật dân sự Bắc kỳ 1931 và Bộ luật dân sự Trung Kì 1936, các nhà làm luật quy định năm thứ tự ưu tiên hưởng di sản tương tự như năm hàng thừa kế:
Hàng thứ nhất gồm: Các con (con đẻ, con nuôi, con vợ cả, con vợ lẽ) của người để lại di sản. Trong trường hợp người để lại di sản không còn con thì cháu hưởng di sản (Điều 18 BLDS Bắc kì 1931và Điều 182 BLDS Trung kì 1936).
Hàng thứ hai bao gồm: Cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi của người để lại di sản
Hàng thứ ba bao gồm: Ông nội, bà nội, cụ nội của người để lại di sản. (Các cụ nội của người để lại di sản chỉ được hưởng di sản trong trường hợp cả ông nội, bà nội của người để lại di sản không còn.
Hàng thứ tư bao gồm: Anh, chị, em ruột của người để lại di sản. Con của anh, chị, em ruột người để lại di sản cũng thuộc hàng này trong trường hợp anh, chị, em ruột của người để lại di sản đã chết trước người để lại di sản. Cháu gọi anh, chị, em ruột của người để lại di sản bằng ông, bà cũng thuộc hàng thừa kế này trong trường hợp anh, chị, em ruột và con của anh, chị, em ruột của người để lại di sản đều đã chết người để lại di sản.
Hàng thứ năm bao gồm: Những người bên họ ngoại của người để lại di sản. Những người này chỉ được hưởng di sản sau khi đã xác định bên họ nội của người để lại di sản thừa kế không còn ai hoặc còn nhưng đều bị coi bất xứng hưởng di sản.
Như vậy, theo pháp luật thời kỳ này, hàng thừa kế thứ nhất là con cái (các con đẻ, các con nuôi, con vợ cả hay con vợ lẽ) của người để lại di sản. Hàng thừa kế thứ hai gồm có cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi của người để lại di sản. Đồng thời pháp luật cũng ghi nhận trường hợp người để lại di sản không còn cha mẹ thì ông bà được hưởng di sản ở vị trí ưu tiên thứ ba.
* Pháp luật về hàng thừa kế sau năm 1945:
Sau khi bản
– Nếu người chết không có con cháu thì vợ hoặc chồng của người chết chỉ được hưởng một nửa di sản, còn một nửa thuộc về cha, mẹ hoặc những người thừa kế khác của người chết. Như vậy, vợ hoặc chồng của người chết tuy thuộc hàng thừa kế thứ nhất nhưng khi người chết không có con thì vợ hoặc chồng của người chết chỉ được hưởng một nửa di sản của người vợ hoặc chồng chết trước. Việc quy định như vậy đã không đảm bảo đầy đủ ý nghĩa của việc chia hàng thừa kế. Vì về nguyên tắc, người ở hàng thừa kế sau chỉ được hưởng di sản thừa kế trong trường hợp không có người thừa kế ở hàng trước. Trong trường hợp này người ở hàng thừa kế thứ nhất vẫn sống nhưng di sản thừa kế lại được chia cho cả những người thuộc hàng thừa kế sau.
– Quyền thừa kế của người vợ góa lại chia làm hai trường hợp là có con chung với chồng hay không có con dẫn đến việc người vợ không ở một hàng thừa kế cụ thể nào.
Nhằm khắc phục thiếu sót trên của Thông tư 1742, TANDTC đã ban hành Thông tư số 594-NCPL, ngày 27/8/1968 hướng dẫn đường lối xét xử việc tranh chấp thừa kế. Thông tư này đánh dấu một bước phát triển mạnh mẽ trong việc hoàn thiện pháp luật về thừa kế của Việt Nam. Theo Thông tư này, hàng thừa kế được xác định dựa trên các mối quan hệ hôn nhân, huyết thống và nuôi dưỡng với người để lại di sản. Theo đó, Thông tư 594-NCPL đã qui định:
Hàng thừa kế thứ nhất gồm có: Vợ goá, (vợ cả goá, vợ lẽ goá) hoặc chồng goá; các con đẻ, các con nuôi; bố mẹ đẻ hoặc bố mẹ nuôi.
Hàng thừa kế thứ hai gồm có: Anh chị em ruột và anh chị em nuôi; ông bà nội ngoại
Như vậy, khác với Thông tư 1742, Thông tư 594 đã sắp xếp bố, mẹ lên hàng thừa kế thứ nhất để hưởng di sản do con để lại, đồng thời đã loại bỏ cụm từ “hàng thừa kế khác” để xác định chính thức chỉ có hai hàng thừa kế. Theo Thông tư này, những người thừa kế ở hàng đầu được hưởng toàn bộ di sản, nếu không có những người thừa kế hàng đầu hoặc tuy có nhưng họ đều từ chối quyền hưởng thì những người ở hàng tiếp theo được hưởng di sản. Hàng thừa kế thứ nhất đã được chỉ rõ là vợ góa (bao gồm vợ cả góa và vợ lẽ góa), chồng góa, các con đẻ, các con nuôi, bố đẻ, mẹ đẻ, bố nuôi, mẹ nuôi. Như vậy, trong hàng thừa kế thứ nhất, những người thừa kế được xác định theo cơ cấu có quan hệ hôn nhân, huyết thống và nuôi dưỡng đối với người để lại di sản. Bề trên gồm bố đẻ, mẹ đẻ hoặc bố nuôi, mẹ nuôi của người chết. Bề dưới gồm các con đẻ và con nuôi của người để lại di sản. Cùng bậc gồm có vợ góa hoặc chồng góa của người để lại di sản. Điểm mới của Thông tư 594 so với các văn bản trước đó là bố mẹ (bao gồm bố mẹ đẻ và bố mẹ nuôi) của người chết được thừa kế ở hàng thứ nhất cùng với vợ con của người để lại di sản. Như vậy, so với các văn bản trước đó, thì người thừa kế ở hàng thứ nhất được mở rộng. Ngoài những người có quan hệ huyết thống còn có những người có quan hệ nuôi dưỡng với người để lại di sản như bố nuôi, mẹ nuôi và con nuôi.
Thông tư này đã quy định hàng thừa kế thứ hai gồm anh chị em ruột, anh chị em nuôi, ông bà nội và ngoại. Như vậy, hàng thừa kế thứ hai gồm những người có quan hệ huyết thống với người để lại di sản đó là ông bà nội ngoại và anh chị em ruột của người chết; những người có quan hệ nuôi dưỡng là anh chị em nuôi của người chết. Đây được coi là văn bản pháp luật đầu tiên đưa anh chị em vào những người thuộc hàng thừa kế thứ hai, điều này phù hợp với truyền thống “lá rơi về cội, nước chảy về nguồn”, “giọt máu đào hơn ao nước lã” của nhân dân ta. Tuy nhiên, việc đưa anh chị em nuôi cũng thuộc hàng thừa kế thứ hai của nhau và phủ nhận quyền thừa kế của những người con nuôi với những người có quan hệ huyết thống với họ có thể coi là một hạn chế lớn của thông tư này. Bởi vì, giữa anh chị em nuôi không có quan hệ huyết thống với nhau, cũng không có quan hệ nuôi dưỡng với nhau, vì vậy cho họ được quyền thừa kế của nhau là không có căn cứ.
Nhằm củng cố và hoàn thiện hơn nữa quyền thừa kế nói chung và quyền thừa kế theo pháp luật của công dân nói riêng tiếp theo Thông tư 594 TANDTC ban hành Thông tư số 81-TANDTC, ngày 24/7/1981 hướng dẫn giải quyết các tranh chấp về thừa kế. Nội dung của Thông tư này khẳng định rõ cơ sở pháp lý của việc thừa kế theo pháp luật là quan hệ hôn nhân, quan hệ huyết thống và quan hệ nuôi dưỡng. Theo Thông tư này, những người thân gần gũi nhất với người chết được xếp vào hàng thừa kế thứ nhất. Những người này được thừa kế trước và thừa kế toàn bộ di sản và bao gồm: vợ góa (vợ cả góa, vợ lẽ góa) hoặc chồng góa, các con đẻ và con nuôi, bố đẻ, mẹ đẻ, bố nuôi, mẹ nuôi. Thông tư này cũng quy định cụ thể quan hệ vợ chồng cho đến khi mở thừa kế phải là quan hệ hôn nhân hợp pháp hoặc hôn nhân thực tế được
Điểm mới tiến bộ trong Thông tư 81 là quy định: Con riêng của vợ hay con riêng của chồng người chết không được thừa kế di sản của người chết, vì không có quan hệ huyết thống đối với người chết. Nhưng nếu có đầy đủ bằng chứng để xác định rằng người con riêng đã được bố dượng hoặc mẹ kế yêu thương, nuôi dưỡng, chăm sóc như con đẻ, thì người con riêng đó được thừa kế. Đây là quan điểm tiến bộ nhằm thắt chặt mối quan hệ giữa người con riêng của vợ hoặc của chồng với cha kế, mẹ kế trong quan hệ gia đình.
Những quy định về hàng thừa kế thứ hai trong Thông tư 81 là một sự kế thừa và phát triển những quy định trong Thông tư 594. Hàng thừa kế thứ hai được quy định cụ thể hơn, chi tiết hơn: Ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh chị em ruột, anh chị em cùng cha khác mẹ, cùng mẹ khác cha của người để lại thừa kế có quan hệ huyết thống gần gũi với người để thừa kế. Thông tư 81 đã thể hiện sự tôn trọng nguyên tắc pháp luật XHCN ở nước ta, bảo vệ quyền thừa kế tài sản của công dân, bảo vệ sự bình đẳng về quyền thừa kế của công dân. Thông tư 81 cũng xác định quyền thừa kế của những người cùng cha khác mẹ hoặc cùng mẹ khác cha, vì về nguyên tắc họ vẫn cùng một cha hoặc một mẹ sinh ra, vì vậy theo pháp luật họ là anh chị em ruột của nhau. Tuy nhiên, trong Thông tư này, các nhà làm luật quy định con nuôi được coi như con đẻ nên anh chị em nuôi cũng được xếp cùng hàng với anh chị em ruột và có quyền thừa kế như anh chị em ruột là một điểm hạn chế.
Pháp lệnh thừa kế 1990 là văn bản pháp luật qui định về thừa kế tiếp theo Thông tư 81/TANDTC. Đây là một văn bản pháp luật do cơ quan quyền lực ở Trung ương (Hội đồng Nhà nước) ban hành trong những năm đầu thực hiện đường lối đổi mới của Đảng và Nhà nước. Để đảm bảo hơn nữa về quyền thừa kế, của mọi chủ chủ thể nói chung và của mọi cá nhân nói riêng, pháp lệnh thừa kế đã xác định diện những người thừa kế theo pháp luật với một phạm vi rộng hơn Thông tư 81/TANDTC. Vì vậy, số lượng hàng thừa kế theo pháp luật cũng nhièu hơn so với các văn bản pháp luật về thừa kế trước đó. Tại Điều 25, Pháp lệnh thừa kế 1990 đã qui định ba hàng thừa kế.
Hàng thứ nhất gồm vợ, chồng; cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi của người chết. Như vậy, Pháp lệnh thừa kế 1990 đã đổi mới trong quy định về quyền hưởng di sản thừa kế của những người thừa kế ở hàng thứ nhất. Trong mối quan hệ thừa kế di sản của nhau giữa cha, mẹ và con, Pháp lệnh thừa kế 1990 không phân biệt người con đó có đang làm con nuôi của người khác hay không. Vì vậy, khi cha mẹ chết thì con nuôi cũng như con đẻ đều đứng ở hàng thừa kế thứ nhất để hưởng di sản của bố, mẹ để lại và ngược lại, khi con chết thì cha, mẹ đẻ cũng như cha, mẹ nuôi đều đứng ở hàng thừa kế thứ nhất để hưởng di sản của người con đã chết để lại.
Hàng thừa kế thứ hai của Pháp lệnh thừa kế 1990 gồm: ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị ruột, em ruột của người chết. Như vậy, trong hàng thừa kế thứ hai đã loại bỏ người thừa kế là anh nuôi, chị nuôi, em nuôi.
Ngoài ra, theo Pháp lệnh thừa kế 1990 thì hàng thừa kế thứ ba gồm cụ nội, cụ ngoại của người chết; bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột của người chết; cháu ruột của người chết là bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì duột.
>>> Luật sư tư vấn pháp luật hành chính qua tổng đài: 1900.6568
Sau một thời gian dài áp dụng Pháp lệnh thừa kế 1990 nói riêng và các văn bản pháp luật dân sự nói chung vào thực tiễn cuộc sống, trước sự phát triển không ngừng và phong phú, đa dạng của các quan hệ dân sự cho thấy việc qui định để điều chỉnh các quan hệ dân sự bằng các văn bản dưới luật đã không còn phù hợp và không đáp ứng được đòi hỏi của thực tế cuộc sống. Trước tình hình đó Bộ luật dân sự 1995 được ban hành, có vị trí thứ hai sau Hiến pháp 1992 và trở thành một công cụ pháp lý hữu hiệu đáp ứng các nhu cầu vật chất và tinh thần của nhân dân, thúc đẩy sự phát triển kinh tế- xã hội. Với tinh thần đó Bộ luật dân sự 1995 là một văn bản pháp luật đã hệ thống hoá, pháp điển hoá toàn bộ pháp luật dân sự của nước ta từ trước đên nay. Sau đó, do sự thay đổi và phát triển về nhiều mặt của cuộc sống, các quy định trong Bộ luật dân sự 1995 đã có nhiều điểm trở nên bất cập và nhiều thiếu sót. Vì thế, Nhà nước ta đã tiến hành sửa đổi, bổ sung Bộ luật dân sự 1995 bằng Bộ luật dân sự 2005. Tuy nhiên, về hàng thừa kế theo pháp luật, cả hai Bộ luật dân sự vẫn giữ nguyên qui định của Pháp lệnh thừa kế 1990. Tại Điều 679, Bộ luật dân sự 1995 và Điều 676 Bộ luật dân sự 2005 qui định hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi; con đẻ, con nuôi của người chết.
Như vậy, những cơ sở để xác định hàng thừa kế thứ nhất tại Thông tư 81/TANDTC tiếp tục được kế thừa và phát triển tại các văn bản pháp luật điều chỉnh quan hệ thừa kế sau này. Theo quan hệ huyết thống ở hàng thừa kế thứ nhất có cha đẻ, mẹ đẻ, con đẻ được hưởng di sản của nhau. Theo quan hệ hôn nhân thì vợ chồng được hưởng di sản của nhau. Theo quan hệ nuôi dưỡng thì con nuôi,
Pháp luật nước ta quy định vợ chồng có quyền hưởng di sản thừa kế của nhau không phụ thuộc vào nội dung di chúc, nhưng pháp luật cũng đòi hỏi phải có sự tồn tại của hôn nhân hợp pháp cho đến thời điểm mở thừa kế, tức quan hệ vợ chồng được xác lập theo những điều kiện, trình tự luật định phù hợp với ý chí của Nhà nước.
Pháp luật nước ta ghi nhận sự bình đẳng giữa vợ và chồng nên vợ chồng được hưởng thừa kế của nhau và khi chia di sản thừa kế vợ góa, chồng góa là người hưởng thừa kế ở hàng thứ nhất. Trong trường hợp đặc biệt, một bên vợ hoặc chồng chết mà bên còn lại gặp hoàn cảnh khó khăn trong đời sống cũng như việc nuôi dạy con cái thì pháp luật chuyên ngành quy định bên còn sống được quyền yêu cầu
Các BLDS sau này cũng kế thừa các quy định về hàng thừa kế thứ hai của Pháp lệnh thừa kế 1990. Điểm b khoản 1 Điều 679 Bộ luật dân sự 1995 quy định hàng thừa kế thứ hai gồm: “Ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị ruột, em ruột của người chết“. Như vậy, so với Pháp lệnh thừa kế 1990, những quy định này được giữ nguyên, không có sự thay đổi.
Bộ luật dân sự 2005 tiếp tục ghi nhận những nội dung trên của Pháp lệnh thừa kế 1990 và Bộ luật dân sự 1995 nhưng có sự bổ sung thêm người thừa kế thuộc hàng thứ hai đó là:
“Cháu ruột của người chết mà người chết là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại”.
Ông nội, bà nội là người sinh ra cha của người chết. Ông ngoại, bà ngoại là người sinh ra mẹ của người chết. Anh chị em ruột của người chết là người cùng được sinh ra từ cha mẹ chung, hoặc cùng cha khác mẹ, cùng mẹ khác cha với người chết. Có thể nhận thấy rằng sau bố mẹ, con, vợ chồng, thì những người ở hàng thừa kế thứ hai có quan hệ thân thích khá gần với người để lại di sản.
Theo điểm b, khoản 1, Điều 676 Bộ luật dân sự 2005 thì căn cứ để xác định mối quan hệ thừa kế này là hoàn toàn dựa vào quan hệ huyết thống mà không dựa vào quan hệ nuôi dưỡng. Pháp luật không đương nhiên thừa nhận giữa cha đẻ, mẹ đẻ của một người với người con nuôi của người đó có quan hệ thừa kế. Vì vậy, ông nội, bà nội của một người là người đã sinh ra cha đẻ của người đó, ông ngoại, bà ngoại của một người là người đã sinh ra mẹ đẻ của người đó. Trước đây, trong Bộ luật dân sự 1995 không xếp cháu vào hàng thừa kế thứ hai của ông bà nên quan hệ thừa kế này chỉ có một chiều nhưng theo Bộ luật dân sự 2005 thì quan hệ thừa kế này là thừa kế hai chiều vì cháu đã được xếp vào hàng thừa kế thứ hai của ông, bà. Do vậy, nếu ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại còn sống vào thời điểm người cháu của mình chết sẽ là người thừa kế theo pháp luật ở hàng thừa kế thứ hai của người cháu đó. Ngược lại, khi ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại chết thì cháu của người chết sẽ là người thừa kế theo pháp luật ở hàng thừa kế thứ hai của người đó. Cũng theo qui định của điểm b nói trên thì khi ông bà chết chỉ có cháu ruột mới được thừa kế di sản của ông bà ở hàng thừa kế thứ hai.
Tuy nhiên, cũng cần bàn thêm rằng khi cháu chết thì ông, bà nuôi (cha, mẹ nuôi của cha, mẹ đẻ người chết hoặc cha mẹ của cha, mẹ nuôi người chết) có được hưởng di sản của người cháu đó theo hàng thừa kế thứ hai không, vì vấn đề này điểm b) nói trên chưa quy định cụ thể. Nếu theo tinh thần của Nghị quyết 02/HĐTP ngày 19/10/1990 của TANDTC hướng dẫn: “Con nuôi không đương nhiên trở thành cháu của cha mẹ của người nuôi dưỡng” thì con nuôi của một người muốn được xác định có quan hệ ông cháu, bà cháu với cha mẹ, của cha, mẹ nuôi của mình phải được sự thừa nhận của người đó. Do đó, khi giải quyết thừa kế theo mối quan hệ này, theo chúng tôi, cần xác định thành hai trường hợp:
Thứ nhất, nếu ông, bà là
Thứ hai, nếu người chết là con nuôi của con đẻ hay con nuôi của ông bà thì ông bà không đương nhiên là người thừa kế ở hàng thừa kế thứ hai của người chết.
Anh, chị, em ruột là những người cùng cha hoặc mẹ sinh ra, nên họ luôn được hưởng thừa kế của nhau. Theo pháp luật nước ta thì anh, chị, em ruột là những người thuộc hàng thừa kế thứ hai, việc quy định này ở nước ta đã có từ rất lâu. Điều 340 Dân luật bắc kỳ quy định:
“Nếu người mệnh một không còn con cháu cùng cha mẹ ông bà về bên nội, thì di sản truyền cho anh chị em ruột người ấy được chia phần đều nhau.
Trong các người anh chị em được thừa hưởng, nếu có người nào chết rồi mà đến khi khai phát ra việc thừa kế hiện còn con cháu, thì những người con cháu ấy được thay mặt cha mẹ mình đã quá vãng để cùng dự chia với chú bác mình mà nhận lấy phần của người thừa hưởng quá vãng để chia lẫn với nhau.”
Anh chị em ruột là những người có cùng huyết thống. Trong trường hợp không còn bố mẹ hoặc bố mẹ không có điều kiện thì anh chị em cũng phải nuôi dưỡng nhau. Vì vậy, pháp luật quy định cho họ thuộc hàng thừa kế thứ hai của nhau là hợp lý, phù hợp với thực tế cuộc sống.
Để tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật về thừa kế, Bộ luật dân sự 1995 có quy định thêm hàng thừa kế thứ ba, tại Điểm a, Khoản 1 Điều 679 Bộ luật dân sự 1995 quy định: “Hàng thừa kế thứ ba gồm:
“Cụ nội, cụ ngoại của người chết, bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột của người chết, cháu ruột của người chết là bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột“.
Bộ luật dân sự 2005 tiếp tục có sự bổ sung, khắc phục những hạn chế, thiếu sót của Pháp lệnh thừa kế 1990 cũng như Bộ luật dân sự 1995. Ngoài việc tiếp tục ghi nhận cụ nội, cụ ngoại của người chết, bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột của người chết, cháu ruột của người chết là bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột thuộc hàng thừa kế thứ ba, còn tiếp tục bổ sung chắt cũng thuộc hàng thừa kế thứ ba của cụ nội, cụ ngoại.
Việc quy định mở rộng hàng thừa kế đã đảm bảo quyền lợi cho những người có quan hệ họ hàng với người có di sản để lại khi chết và phù hợp với ý chí của người để lại di sản, là hoàn toàn phù hợp với quyền lợi của các thành viên trong gia đình, củng cố, phát huy tình đoàn kết yêu thương, gắn bó giúp đỡ lẫn nhau trong gia đình và trong họ hàng.
Có thể nói, bằng các nguyên tắc cơ bản được ghi nhận trong Bộ luật dân sự 1995, Pháp luật thừa kế 1990 ở nước ta đã bảo vệ lợi ích hợp pháp của mọi người lao động trên cơ sở bảo vệ lợi ích chung của toàn xã hội, nâng cao ý thức pháp luật của người dân trong lĩnh vực thừa kế nói riêng cũng như trong đời sống xã hội nói chung.