Kiện đòi tiền cho vay theo giấy biên nhận. Không có khả năng chi trả tiền vay nợ thì có bị truy cứu trách nhiệm hình sự không?
Tóm tắt câu hỏi:
Xin chào luật sư. Cháu có vay của 1 người 30 triệu nhưng do ăn chơi nên cháu không có tiền để trả lại người đó. Do cháu chưa có tiền trả nên người đó cho cháu nợ lại nhưng bắt cháu viết giấy vay mới cộng cả tiền gốc và tiền lãi vào. Cụ thể nợ của cháu lên 150 triệu. Và cháu đã trả người đó số tiền là 110 triệu nhưng do chưa trả hết nên người đó không chịu trả lại cháu giấy vay tiền. Bây giờ người đó đòi cháu nhưng do chưa có nên cháu khất, người đó không nghe và đòi kiện cháu ra tòa với số tiền 130 triệu trong giấy vay. Vậy luật sư cho cháu hỏi nếu kiện ra tòa cháu có phải trả người đó số tiền 130 triệu không và cháu có phạm tội gì không ạ?
Luật sư tư vấn:
Cám ơn bạn đã gửi câu hỏi của mình đến Ban biên tập – Phòng tư vấn trực tuyến của Công ty LUẬT DƯƠNG GIA. Với thắc mắc của bạn, Công ty LUẬT DƯƠNG GIA xin được đưa ra quan điểm tư vấn của mình như sau:
Về việc hỏi nếu kiện ra tòa cháu có phải trả người đó số tiền 130 triệu không?
Theo như tình huống này có nhiều điểm chưa rõ về thời gian vay và lãi suất vay nên khó có thể tư vấn cụ thể để giúp bạn bảo vệ quyền lợi của mình. Nếu số lãi thỏa thuận trái pháp luật thì sẽ chỉ thực hiện trả nợ đúng phần lãi pháp luật quy định.
Điều 476 “Bộ luật dân sự 2015” quy định về Lãi suất vay:
“1. Lãi suất vay do các bên thoả thuận nhưng không được vượt quá 150% của lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố đối với loại cho vay tương ứng.
2. Trong trường hợp các bên có thoả thuận về việc trả lãi, nhưng không xác định rõ lãi suất hoặc có tranh chấp về lãi suất thì áp dụng lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố tương ứng với thời hạn vay tại thời điểm trả nợ.”
Vì khi khởi kiện ra tòa thì cần phải có cơ sở chứng minh. Vì khi nợ của bạn là 150 triệu, đã trả 110 triệu thì trước khi đưa tiền phải yêu cầu viết giấy tờ chứng minh là đã hoàn thành 1 phần nghĩa vụ trả nợ.
Như vậy,
>>> Luật sư
Về câu hỏi có phạm tội gì không
Vì quan hệ pháp luật này có tính chất dân sự, hành vi chưa trả nợ, hay chậm thực hiện nghĩa vụ trả nợ không phải hành vi cấu thành tội phạm bởi không có dấu gian dối chiếm đoạt số tài sản đó. Nếu có hành vi gian dối, chiếm đoạt số tài sản vay sẽ có khả năng bị truy cứu trách nhiệm hình sự
Điểm a, Khoản 1, điều 140 “Bộ luật hình sự 2015” sửa đổi năm 2009 về Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản
“1. Người nào có một trong những hành vi sau đây: chiếm đoạt tài sản của người khác có giá trị từ một triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới một triệu đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến ba năm:
a) Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng các hình thức hợp đồng rồi dùng thủ đoạn gian dối hoặc bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản đó“.
Theo Điều 474, “Bộ luật dân sự 2015” về nghĩa vụ trả nợ của bên vay:
“1. Bên vay tài sản là tiền thì phải trả đủ tiền khi đến hạn; nếu tài sản là vật thì phải trả vật cùng loại đúng số lượng, chất lượng, trừ trường hợp có thoả thuận khác.
2. Trong trường hợp bên vay không thể trả vật thì có thể trả bằng tiền theo trị giá của vật đã vay tại địa điểm và thời điểm trả nợ, nếu được bên cho vay đồng ý….”
Như vậy, khi kiện ra tòa, căn cứ vào các chứng cứ mà các bên đương sự cung cấp, tòa án sẽ xét xử theo như quy định của pháp luật, Trong trường hợp tòa án xác định bên vay có nghĩa vụ trả nợ thì đó vẫn được xác định là trách nhiệm dân sự, mà không phải trách nhiệm hình sự.