Các tranh chấp này không được giải quyết triệt để thì sẽ kéo dài, vậy vai trò làm giảm nguy cơ tranh chấp thương mại trong WTO.
Tranh chấp xuất hiện khi một nước thành viên áp dụng một biện pháp, chính sách thương mại mà một hoặc một số thành viên khác coi là vi phạm các quyền của họ được quy định trong các hiệp định WTO. Khi một thành viên đưa tranh chấp ra kiện tại WTO, Hội đồng chung của WTO với vai trò là cơ quan giải quyết tranh chấp (DSB) sẽ bổ nhiệm một đoàn thẩm phán có quyền độc lập xem xét vụ kiện và đưa ra phán quyết dựa trên các hiệp định WTO và cam kết của từng nước thành viên. Và sau đó khi các tranh chấp này không được giải quyết triệt để, hoặc được giải quyết nhưng vẫn không đi đến một con đường chung thì sẽ nhanh chóng gây ra sự ác cảm giữa các nước với nhau và leo thang thành xung đột chính trị hoặc quân sự.
Lịch sử đã cho ta những thí dụ về các tranh chấp thương mại đã trở thành các cuộc chiến tranh. Một thí dụ cụ thể là cuộc chiến tranh thương mại vào năm 1930 khi các nước cạnh tranh nhau tăng hàng rào quan thuế để bảo vệ hàng hóa trong nước và trả đũa các nước khác. Việc này làm gây khủng hoảng kinh tế và phát sinh ra đệ nhị thế chiến.
Các quy định – hiệp định của WTO về quy trình giải quyết tranh chấp thương mại và về việc kiểm điểm chính sách là kết quả của các cuộc đàm phán giữa các thành viên, xác định các quyền và nghĩa vụ của các thành viên theo nguyên tắc không phân biệt đối xử. Hiệp định có điều khoản riêng đối với các nước đang phát triển hoặc kém phát triển (chiếm ba phần tư số thành viên WTO) như cho phép các nước này có khoảng thời gian dài hơn để thực hiện các hiệp định và cam kết, các biện pháp trợ giúp xây dựng chính sách thương mại, kỹ thuật đàm phán, đào tạo chuyên gia… Nguyên tắc giải quyết tranh chấp của WTO là giải pháp công bằng, nhanh chóng, hiệu quả và các bên đều chấp nhận được. WTO khuyến khích các bên tranh chấp tự tham khảo ý kiến và dàn xếp với nhau trước khi bắt đầu và kể cả trong quá trình xét xử. Việc xét xử được tiến hành theo một lộ trình rõ ràng, gồm nhiều giai đoạn, tiến hành khá mất nhiều thời gian, cụ thể: từ khi DSB thụ lý vụ kiện đến khi ra phán quyết ban đầu là 12 tháng; phúc thẩm (nếu các bên kháng cáo) ba tháng. WTO quy định các phán quyết tự động có hiệu lực trừ khi bị tất cả các nước bác bỏ, do vậy không thành viên nào có thể cản trở việc thực hiện phán quyết. Khi WTO đã phán quyết một nước thành viên vi phạm quy định của tổ chức, nước đó sẽ phải nhanh chóng sửa sai, nếu tiếp tục vi phạm, nước đó sẽ phải bồi thường hoặc chịu phạt. Trên nguyên tắc, các biện pháp trừng phạt được áp đặt đối với cùng nhóm thương mại phát sinh tranh chấp, thí dụ EU kiện Mỹ áp dụng thuế chống bán phá giá đối với thép của EU, EU có thể áp dụng các biện pháp trừng phạt tương tự đối với thép của Mỹ. Nếu biện pháp trừng phạt thương mại cùng nhóm không thực hiện được hoặc không hiệu quả, có thể áp đặt trừng phạt đối với nhóm khác của cùng một hiệp định, thí dụ EU có thể tăng thuế nhập khẩu đối với một số nông sản.
>>> Luật sư
của Mỹ có giá trị bằng số thiệt hại do việc Mỹ áp dụng thuế chống bán phá giá đối với thép của EU. Như vậy, quy trình giải quyết tranh chấp thương mại của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) là một trong những điều kiện thiết yếu bảo đảm hiệu lực của các quy định chung. Quá đó, WTO thể hiện rõ vai trò của mình đối với sự ổn định của nền kinh tế toàn cầu, giảm nguy cơ tranh chấp thương mại leo thang thành xung đột chính trị hoặc quân sự.