Mức độ phạm tội của cá nhân hay tổ chức tại nước ta từ trước đến nay vẫn đang là vấn đề được Đảng và nhà nước quan tâm. Bên cạnh những lý do phạm tội mang tính khách quan thì cũng xuất hiện những lý do mang tính chất động cơ đê hèn. Vậy, động cơ đê hèn là gì?
Mục lục bài viết
1. Động cơ đê hèn là gì?
Động cơ đê hèn hiện nay theo quy định của pháp luật thì đây được quy định là một tình tiết tăng năng trong quá trình phạm tội và để cơ quan nhà nước có thẩm quyền lựa chọn khung hình phạt phù hợp với hành vi phạm tội. Theo đó, động cơ đê hèn được hiểu là động cơ để thúc đẩy ý chí phạm tội của người thực hiện hành vi. Tuy nhiên, động cơ này mang tính chất hèn hạ về đê tiện của cá nhân phạm tội.
Despicable motivation is understood as the motivation to motivate the will of the person to commit the crime. However, this motive is of the despicable nature of the individual offender.
2. Hiểu thế nào cho đúng về phạm tội vì động cơ đê hèn:
Một tội phạm gây ra hành vi phạm tội có thể xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác nhau, có thể là ý chí chủ quan hoặc ý chỉ khách quan. Tuy nhiên, dù xuất phát từ bất kỳ lý do gì thì một khi đã phạm tội thì đều sẽ chịu trách nhiệm hình sự theo quy định. Theo đó, hiện nay để xác định và áp dụng đúng hình phạt đối với từng cá nhân phạm tội thì pháp luật nước ta có quy định thêm các tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ đối với từng tội danh. Đây được xem là một trong những căn cứ cần thiết để
Tình tiết tăng nặng được chính thức quy định lag tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự tại điểm g, khoản 1 điều 39 và được quy định là tình tiết tăng nặng định khung tại điểm a, khoản 1 điều 101 về tội giết người của
Theo đó, phạm tội do động cơ đê hèn được hiểu là hành vi phạm tội vì động cơ mang tính chất hèn nhát, phản bội, ích kỷ cao, bội bạc, xấu xa và đáng khinh bỉ, không kể đến danh dự nhân phẩm của bản thân. Đây là tình tiết thuộc mặt ý chỉ của tội phạm, phản ảnh mức độ và tính chất nguy hiểm cho xã hội. Mục đích của hành vi này nhằm thực hiện được những ham muốn của bản thân như xâm phạm đến tình mạng, sức khỏa, danh dự nhân phẩm, quyền tự do của công dân. Đây là hành vi do người có năng lực hành vi dân sự đầy đủ thực hiện, thuộc độ tuổi đã chịu trách nhiệm dưới mọi hình thức, hình vi này xuất phát từ lỗi cố ý do sự thúc đẩy của động lực xấu xa, ti tiện. Mục đích quy định hành vi này là nhằm giúp Tòa án xác định được tội danh và áp dụng được đúng hành vi phạm tội từ đó áp dụng khung hình phạt chính xác, xử phạt đúng người đúng tội. Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự là tình tiết làm cho mức độ nguy hiểm của trường hợp phạm tội thể của một loại tội tăng lên so với trường hợp bình thường và do đó được coi là căn cứ để tăng nặng trách nhiệm hình sụ đối với trường hợp phạm tội.
3. Phân loại tội phạm:
– Căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội được quy định trong Bộ luật này, tội phạm được phân thành 04 loại sau đây:
+ Tội phạm ít nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội không lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật này quy định đối với tội ấy là phạt tiền, phạt cải tạo không giam giữ hoặc phạt tù đến 03 năm;
+ Tội phạm nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật này quy định đối với tội ấy là từ trên 03 năm tù đến 07 năm tù;
+ Tội phạm rất nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội rất lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật này quy định đối với tội ấy là từ trên 07 năm tù đến 15 năm tù;
+ Tội phạm đặc biệt nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội đặc biệt lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật này quy định đối với tội ấy là từ trên 15 năm tù đến 20 năm tù, tù chung thân hoặc tử hình.
Tội phạm do pháp nhân thương mại thực hiện được phân loại căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội theo quy định tại khoản 1 Điều này và quy định tương ứng đối với các tội phạm được quy định tại Điều 76 của Bộ luật này.
4. Các tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:
Thứ nhất, các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự
– Chỉ các tình tiết sau đây mới là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự:
+ Phạm tội có tổ chức;
+ Phạm tội có tính chất chuyên nghiệp;
+ Lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội;
+ Phạm tội có tính chất côn đồ;
+ Phạm tội vì động cơ đê hèn;
+ Cố tình thực hiện tội phạm đến cùng;
+ Phạm tội 02 lần trở lên;
+ Tái phạm hoặc tái phạm nguy hiểm;
+ Phạm tội đối với người dưới 16 tuổi, phụ nữ có thai hoặc17 người đủ 70 tuổi trở lên;
+ Phạm tội đối với người ở trong tình trạng không thể tự vệ được, người khuyết tật nặng hoặc khuyết tật đặc biệt nặng, người bị hạn chế khả năng nhận thức hoặc người lệ thuộc mình về mặt vật chất, tinh thần, công tác hoặc các mặt khác;
+ Lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh, tình trạng khẩn cấp, thiên tai, dịch bệnh hoặc những khó khăn đặc biệt khác của xã hội để phạm tội;
+ Dùng thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt hoặc18 tàn ác để phạm tội;
+ Dùng thủ đoạn hoặc19 phương tiện có khả năng gây nguy hại cho nhiều người để phạm tội;
+ Xúi giục người dưới 18 tuổi phạm tội;
+ Có hành động xảo quyệt hoặc hung hãn nhằm trốn tránh hoặc che giấu tội phạm.
Các tình tiết đã được Bộ luật hình sự quy định là dấu hiệu định tội hoặc định khung hình phạt thì không được coi là tình tiết tăng nặng.
Thứ hai, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự
– Các tình tiết sau đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:
+ Người phạm tội đã ngăn chặn hoặc làm giảm bớt tác hại của tội phạm;
+ Người phạm tội tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại hoặc khắc phục hậu quả;
+ Phạm tội trong trường hợp vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng;
+ Phạm tội trong trường hợp vượt quá yêu cầu của tình thế cấp thiết;
+ Phạm tội trong trường hợp vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội;
+ Phạm tội trong trường hợp bị kích động về tinh thần do hành vi trái pháp luật của nạn nhân gây ra;
+ Phạm tội vì hoàn cảnh đặc biệt khó khăn mà không phải do mình tự gây ra;
+ Phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại hoặc gây thiệt hại không lớn;
+ Phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng;
+ Phạm tội vì bị người khác đe dọa hoặc cưỡng bức;
+ Phạm tội trong trường hợp bị hạn chế khả năng nhận thức mà không phải do lỗi của mình gây ra;
+ Phạm tội do lạc hậu;
+ Người phạm tội là phụ nữ có thai;
+ Người phạm tội là người đủ 70 tuổi trở lên;
+ Người phạm tội là người khuyết tật nặng hoặc khuyết tật đặc biệt nặng;
+ Người phạm tội là người có bệnh bị hạn chế khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình;
+ Người phạm tội tự thú;
+ Người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải;
+ Người phạm tội tích cực hợp tác với cơ quan có trách nhiệm trong việc phát hiện tội phạm hoặc trong quá trình giải quyết vụ án;
+ Người phạm tội đã lập công chuộc tội;
+ Người phạm tội là người có thành tích xuất sắc trong sản xuất, chiến đấu, học tập hoặc công tác;
+ Người phạm tội là người có công với cách mạng hoặc là cha, mẹ, vợ, chồng, con của liệt sĩ.
– Khi quyết định hình phạt, Tòa án có thể coi đầu thú hoặc tình tiết khác là tình tiết giảm nhẹ, nhưng phải ghi rõ lý do giảm nhẹ trong bản án.
– Các tình tiết giảm nhẹ đã được Bộ luật này quy định là dấu hiệu định tội hoặc định khung thì không được coi là tình tiết giảm nhẹ trong khi quyết định hình phạt.
5. Một số tội danh có quy định về việc sử dụng hành vi đê hèn:
Thứ nhất, tội mua bán người
– Người nào dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực, lừa gạt hoặc thủ đoạn khác thực hiện một trong các hành vi sau đây, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 10 năm:
+ Chuyển giao hoặc tiếp nhận người để giao, nhận tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác;
+ Chuyển giao hoặc tiếp nhận người để bóc lột tình dục, cưỡng bức lao động, lấy bộ phận cơ thể của nạn nhân hoặc vì mục đích vô nhân đạo khác;
+ Tuyển mộ, vận chuyển, chứa chấp người khác để thực hiện hành vi quy định tại điểm a hoặc điểm b khoản này.
– Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 08 năm đến 15 năm:
+ Có tổ chức;
+ Vì động cơ đê hèn;
+ Gây thương tích, gây tổn hại cho sức khỏe hoặc gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%, nếu không thuộc trường hợp quy định tại điểm b khoản 3 Điều này;
+ Đưa nạn nhân ra khỏi biên giới của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam;
+ Đối với từ 02 người đến 05 người;
+ Phạm tội 02 lần trở lên.
– Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm:
+ Có tính chất chuyên nghiệp;
+ Đã lấy bộ phận cơ thể của nạn nhân;
+ Gây thương tích, gây tổn hại cho sức khỏe hoặc gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên;
+ Làm nạn nhân chết hoặc tự sát;
+ Đối với 06 người trở lên;
+ Tái phạm nguy hiểm.
Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt quản chế, cấm cư trú từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.
Các văn bản pháp luật có liên quan đến bài viết:
- Bộ luật hình sự 2015 sửa đổi bổ sung 2017.