Em trai tôi có ra tự thú về tội trộm cắp tài sản, bị cơ quan điều tra tiến hành tạm giữ tôi xin hỏi khi bị tạm giữ em trai tôi được đảm bảo những quyền lợi gì theo quy đinh cảu pháp luật?
Tóm tắt câu hỏi:
Em trai tôi có ra tự thú về tội trộm cắp tài sản theo điều 138 Bộ luật hình sự, và hiện nay bị cơ quan điều tra tiến hành tạm giữ tôi xin hỏi khi bị tạm giữ em trai tôi được đảm bảo những quyền lợi gì theo quy đinh của pháp luật? Tôi xin cảm ơn.
Luật sư tư vấn:
Điều 48. Người bị tạm giữ
1. Người bị tạm giữ là người bị bắt trong trường hợp khẩn cấp, phạm tội quả tang, người bị bắt theo quyết định truy nã hoặc người phạm tội tự thú, đầu thú và đối với họ đã có quyết định tạm giữ.
2. Người bị tạm giữ có quyền:
a) Được biết lý do mình bị tạm giữ;
b) Được giải thích về quyền và nghĩa vụ;
c) Trình bày lời khai;
d) Tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa;
đ) Đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu;
e) Khiếu nại về việc tạm giữ, quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng.
3. Người bị tạm giữ có nghĩa vụ thực hiện các quy định về tạm giữ theo quy định của pháp luật.
Luật sư
Tạm giam là biện pháp nhằm đảm bảo thuận lợi cho quá trình điều tra của cơ quan đều tra cũng như đảm bảo quyền và lợi ích của những người liên quan.
Mặc dù bị tạm giữ nhưng em trai anh vẫn sẽ được đảm bảo những quyền lợi sau:
Được biết lý do mình bị tạm giữ; Được giải thích về quyền và nghĩa vụ; Trình bày lời khai; Tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa; Đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu; Khiếu nại về việc tạm giữ, quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Bên cạnh đó cũng phải thực hiện những nghĩa vụ nhất định theo quy định của pháp luật
Mục lục bài viết
1. Tạm giam và chế độ tạm giam, tạm giữ
Tạm giam được áp dụng đối với bị can, bị cáo trong những trường hợp nào? Chế độ tạm giam, tạm giữ được pháp luật quy định như thế nào?
1. Tạm giam có thể được áp dụng đối với bị can, bị cáo trong những trường hợp sau đây:
a) Bị can, bị cáo phạm tội đặc biệt nghiêm trọng; phạm tội rất nghiêm trọng;
b) Bị can, bị cáo phạm tội nghiêm trọng, phạm tội ít nghiêm trọng mà Bộ luật hình sự quy định hình phạt tù trên hai năm và có căn cứ cho rằng người đó có thể trốn hoặc cản trở việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc có thể tiếp tục phạm tội.
2. Đối với bị can, bị cáo là phụ nữ có thai hoặc đang nuôi con dưới ba mươi sáu tháng tuổi, là người già yếu, người bị bệnh nặng mà nơi cư trú rõ ràng thì không tạm giam mà áp dụng biện pháp ngăn chặn khác, trừ những trường hợp sau đây:
a) Bị can, bị cáo bỏ trốn và bị bắt theo lệnh truy nã;
b) Bị can, bị cáo được áp dụng biện pháp ngăn chặn khác nhưng tiếp tục phạm tội hoặc cố ý gây cản trở nghiêm trọng đến việc điều tra, truy tố, xét xử;
c) Bị can, bị cáo phạm tội xâm phạm an ninh quốc gia và có đủ căn cứ cho rằng nếu không tạm giam đối với họ thì sẽ gây nguy hại đến an ninh quốc gia.
3. Những người có thẩm quyền ra lệnh bắt được quy định tại Điều 80 của Bộ luật này có quyền ra lệnh tạm giam. Lệnh tạm giam của những người được quy định tại điểm d khoản 1 Điều 80 của Bộ luật này phải được Viện kiểm sát cùng cấp phê chuẩn trước khi thi hành. Trong thời hạn ba ngày, kể từ ngày nhận được lệnh tạm giam, đề nghị xét phê chuẩn và hồ sơ, tài liệu liên quan đến việc tạm giam, Viện kiểm sát phải ra quyết định phê chuẩn hoặc quyết định không phê chuẩn. Viện kiểm sát phải hoàn trả hồ sơ cho Cơ quan điều tra ngay sau khi kết thúc việc xét phê chuẩn.
4. Cơ quan ra lệnh tạm giam phải kiểm tra căn cước của người bị tạm giam và thông báo ngay cho gia đình người bị tạm giam và cho chính quyền xã, phường, thị trấn hoặc cơ quan, tổ chức nơi người bị tạm giam cư trú hoặc làm việc biết.
Điều 89. Chế độ tạm giữ, tạm giam
Chế độ tạm giữ, tạm giam khác với chế độ đối với người đang chấp hành hình phạt tù.
Nơi tạm giữ, tạm giam, chế độ sinh hoạt, nhận quà, liên hệ với gia đình và các chế độ khác được thực hiện theo quy định của Chính phủ.
2. Bắt bị can, bị cáo để tạm giam khi nào?
Bắt bị can, bị cáo để tạm giam (Điều 80 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003)
a) Khái niệm
Bắt người là biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự được áp dụng đối với bị can, bị cáo, người đang bị truy nã và trong trường hợp khẩn cấp hoặc phạm tội quả tang thì áp dụng cả đối với người chưa bị khởi tố về hình sự nhằm kịp thời ngăn chặn hành vi phạm tội của họ, ngăn ngừa họ trốn tránh pháp luật, tạo điều kiện thuận lợi cho việc điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự.
Bắt bị can, bị cáo để tạm giam là bắt người đã bị khởi tố về hình sự hoặc người đã bị Tòa án quyết định đưa ra xét xử để tạm giam nhằm ngăn chặn bị can, bị cáo tiếp tục phạm tội cũng như tạo điều kiện thuận lợi cho việc điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự.
b) Đối tượng bắt để tạm giam
* Đối tượng bắt để tạm giam chỉ có thể là bị can, bị cáo. Bị can là người đã bị khởi tố về hình sự (Đ49 BLTTHS năm 2003). Bị cáo là người đã bị Tòa án quyết định đưa ra xét xử (Đ50 BLTTHS năm 2003). Những người không phải là bị can, bị cáo không áp dụng biện pháp tạm giam.
* Áp dụng bắt bị can, bị cáo để tạm giam đối với người chưa thành niên. Theo quy định tại Điều 303 BLTTHS năm 2003 thì việc bắt tạm giam người chưa thành niên được quy định như sau:
– Người đủ từ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi có thể bị tạm giam nếu bị bắt trong trường hợp trường hợp khẩn cấp, phạm tội quả tang, người phạm tội tự thú hoặc đang bị truy nã nhưng chỉ trong trường hợp phạm tội rất nghiêm trọng do cố ý hoặc phạm tội đặc biệt nghiêm trọng.
– Người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi có thể bị tạm giam nếu bị bắt trong trường hợp khẩn cấp, phạm tội quả tang, người phạm tội tự thú, đầu thú, hoặc đang bị truy nã nhưng chỉ trong trường hợp phạm tội nghiêm trọng do cố ý, phạm tội rất nghiêm trọng hoặc phạm tội đặc biệt nghiêm trọng.
3. Vấn đề tạm giam trong tố tụng hình sự
Tạm giam là biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự do cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án áp dụng đối với bị can, bị cáo về tội mà Bộ luật hình sự đã quy định hình phạt tù trên một năm và có căn cứ để cho rằng người đó có thể trốn hoặc cản trở việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc có thể tiếp tục phạm tội”
Thẩm quyền ra lệnh tạm giam:
Căn cứ Điều 80 BLTTHS 2003 thì những người có thẩm quyền ra lệnh bắt tạm giam bao gồm:
-Viện trưởng, phó viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Viện kiểm sát quân sự các cấp.
-Chánh án, Phó chánh án
-Thẩm phán giữ chức vụ Chánh tòa, Phó Chánh tòa Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao; Hội đồng xét xử;
-Thủ trưởng, Phó thủ trương Cơ quan điều tra các cấp. Trong trường hợp này, lệnh bắt phải được Viện kiểm sát cùng cấp phê chuẩn trước khi thi hành.
Về Các trường hợp áp dụng tạm giam:
Theo khoản 1 Điều 88 BLTTHS 2003 thì:
“1. Tạm giam có thể được áp dụng đối với bị can, bị cáo trong những trường hợp sau đây:
a) Bị can, bị cáo phạm tội đặc biệt nghiêm trọng; phạm tội rất nghiêm trọng;
b) Bị can, bị cáo phạm tội nghiêm trọng, phạm tội ít nghiêm trọng mà Bộ luật hình sự quy định hình phạt tù trên hai năm và có căn cứ cho rằng người đó có thể trốn hoặc cản trở việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc có thể tiếp tục phạm tội.”
Bên cạnh các trường hợp áp dụng biện pháp tạm giam, pháp luật quy định các trường hợp không áp dụng biện pháp tạm giam. Cụ thể:
Theo khoản 2 Điều 88 BLTTHS 2003:
“ Đối với bị can, bị cáo là phụ nữ có thai hoặc đang nuôi con dưới ba mươi sáu tháng tuổi, là người già yếu, người bị bệnh nặng mà nơi cư trú rõ ràng thì không tạm giam mà áp dụng biện pháp ngăn chặn khác, trừ những trường hợp sau đây:
a.Bị can, bị cáo bỏ trốn và bị bắt theo lệnh truy nã;
b.Bị can, bị cáo được áp dụng biện pháp ngăn chặn khác nhưng tiếp tụcphạm tội hoặc cố ý gây cản trở nghiêm trọng đến việc điều tra, truy tố, xét xử;
c.Bị can, bị cáo phạm tội xâm phạm an ninh quốc gia và có đủ căn cứcho rằng nếu không tạm giam đối với họ thì sẽ gây nguy hại đến an ninh quốc gia.”
Tuy nhiên, Bộ luật Tố tụng hình sự đã quy định 3 trường hợp dù bị can, bị cáo là người đang nuôi con dưới ba mươi sáu tháng tuổi thì vẫn áp dụng biện pháp tạm giam:
Thứ nhất, Bị can, bị cáo bỏ trốn và bị bắt theo lệnh truy nã.
Thứ hai, Bị can, bị cáo được áp dụng biện pháp ngăn chặn khác nhưng tiếp tục phạm tội hoặc cố ý gây cản trở nghiêm trọng đến việc điều tra, truy tố, xét xử;
Thứ ba, Bị can, bị cáo phạm tội xâm phạm an ninh quốc gia và có đủ căn cứ cho rằng nếu không tạm giam đối với họ thì sẽ gây nguy hại đến an ninh quốc gia.
Về việc hủy bỏ biện pháp tạm giam:
Trong quá trình tạm giam, nếu xét thấy không cần thiết phải tiếp tục tạm giam thì cơ quan điều tra phải kịp thời đề nghị Viện kiểm sát hủy bỏ việc tạm giam để trả tự do cho người bị giam hoặc xét thấy cần thì áp dụng biện pháp ngăn chặn khác.
Ngoài ra, khi đã hết thời hạn tạm giam thì người ra lệnh tạm giam phải trả tự do cho người bị tạm giam hoặc xét thấy cần thiết thì áp dụng biện pháp ngăn chặn khác.
Về thủ tục tạm giam: Tuân thủ theo Khoản 4 Điều 88 BLTTHS 2003:
“Cơ quan ra lệnh tạm giam phải kiểm tra căn cước của người bị tạm giam và thông báo ngay cho gia đình người bị tạm giam và cho chính quyền xã, phường, thị trấn hoặc cơ quan, tổ chức nơi người bị tạm giam cư trú hoặc làm việc biết”
Mặt khác, trong mọi thủ tục tam giam phải đảm bảo các yêu cầu pháp lý sau:
-Lệnh tạm giam phải là lệnh viết, người cấm tình trạng tạm giam bằng lệnh miệng.
-Trong lệnh tạm giam của người có thẩm quyền phải ghi rõ ràng các thông tin: ngày, tháng, năm, chức vụ của người ra lệnh để họ chịu trách nhiệm về mặt pháp lý. Đồng thời phải ghi rõ họ tên, địa chỉ của người bị tạm giam, thời hạn tạm giam và phải giao cho người bị tạm giam một bản để họ xem xét và thấy rõ ràng việc mình bị tạm giam là hoàn toàn đúng pháp luật hay chưa đúng pháp luật.
4. Căn cứ áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam
Bộ luật Tố tụng hình sự không trực tiếp quy định các căn cứ áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam (BPNC) mà chỉ quy định áp dụng biện pháp ngăn chặn nói chung. Điều 79 quy định:“Để kịp thời ngăn chặn tội phạm hoặc khi có căn cứ chứng tỏ bị can, bị cáo sẽ gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc sẽ tiếp tục phạm tội, cũng như khi cần bảo đảm thi hành án, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Toà án trong phạm vi thẩm quyền tố tụng của mình hoặc người có thẩm quyền theo quy định của Bộ luật này có thể áp dụng một trong những biện pháp ngăn chặn sau đây: bắt, tạm giữ, tạm giam, cấm đi khỏi nơi cư trú, bảo lĩnh, đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm”.
Trong số các căn cứ trên: căn cứ “kịp thời ngăn chặn tội phạm” chỉ áp dụng cho trường hợp bị bắt quả tang theo khoản 1 Điều 82 hoặc bắt người trong người trong trường hợp khẩn cấp như ở điểm a khoản 1 Điều 81 nhằm kịp thời ngăn chặn hành vi phạm tội, không để tội phạm xảy ra hoặc hoàn thành hay không để người phạm tội kết thúc hành vi phạm tội của mình, gây hậu quả nguy hiểm cho xã hội. Căn cứ này không thể là căn cứ áp dụng cho đối tượng áp dụng BPNC tạm giam là bị can, bị cáo, hành vi phạm tội của họ đã được thực hiện trong quá khứ. Như vậy có các căn cứ sau:
– Căn cứ thứ nhất: khi có căn cứ cho rằng bị can, bị cáo sẽ gây khó khăn cho hoạt động điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án. Hành vi gây khó khăn cho hoạt động điểu tra, truy tố, xét xử và thi hành án được thể hiện qua việc sau khi thực hiện hành vi phạm tội người phạm tội có thể bỏ trốn, tiêu hủy, làm giả hoặc thay đổi chứng cứ, xóa các dấu vết của vụ án, mua chuộc, dụ dỗ, lừa phỉnh, khống chế người làm chứng, người bị hại… dẫn đến gây khó khăn cho việc xác định, làm rõ sự thật khác quan vụ án.
– Căn cứ thứ hai: khi có căn cứ chứng tỏ bị can, bị cáo sẽ tiếp tục phạm tội. Để nhận định bị can, bị cáo tiếp tục phạm tội phải dựa vào nhiều tình tiết và xem xét đánh giá một cách tổng hợp. Những tình tiết đó thường là: Tính chất của tội phạm mà bị can, bị cáo đã thực hiện; Nhân thân của bị can, bị cáo; Những biểu hiện cụ thể của bị can, bị cáo như đe dọa, khống chế, mua chuộc người làm chứng, người bị hại, sử dụng thời gian bất minh, đi lại gặp gỡ bọn tội phạm. Về các yếu tố phản ánh về nhân thân của bị can, bị cáo như: là những phần tử xấu, tái phạm, tái phạm nguy hiểm, là những tội phạm có tính chất chuyên nghiệp … căn cứ này còn được thể hiện qua hành vi của bị can, bị cáo như đe dọa trả thù người làm chứng, người bị hại, và sự đe dọa đó có khả năng trở thành hiện thực.
– Căn cứ thứ 3: để bảo đảm thi hành án Công tác thi hành án thực sự là vấn đề quan trọng. Khi cần đảm bảo thi hành án, tùy theo tính chất của từng vụ án và nhân thân người bị kết án, Tòa án có thể áp dụng BPNC thích hợp, trong đó có BPNC tạm giam để đảm bảo cho việc thi hành án.
5. Tạm giữ, tạm giam người đồng tính theo quy định mới
Tạm giữ, tạm giam người đồng tính theo quy định mới. Người đồng tính, người chuyển giới có thể được tạm giữ, tạm giam ở buồng riêng.
Luật sư tư vấn:
Từ ngày 01/07/2016, Luật thi hành tạm giữ, tạm giam 2015 có hiệu lực, nghi can giết người, người mắc bệnh truyền nhiễm, người đồng tính hay chuyển giới sẽ được giam ở khu riêng, người nào vi phạm kỷ luật sẽ bị cùm chân.
Như vậy, người đồng tính, chuyển giới được giam riêng theo quy định luật mới.
Tại Điều 18 có nội dung quy định bố trí theo khu và phân loại đối với người bị tạm giữ, tạm giam, bao gồm: Người bị tạm giữ; người bị tạm giam; người dưới 18 tuổi; phụ nữ; người nước ngoài; người mắc bệnh truyền nhiễm nhóm A; người thực hiện hành vi phạm tội có tính chất côn đồ; giết người; cướp tài sản thuộc loại tội phạm đặc biệt nghiêm trọng; tái phạm nguy hiểm; người phạm tội xâm phạm an ninh quốc gia; người bị kết án tử hình; người đang chờ chấp hành án phạt tù; người thường xuyên vi phạm nội quy của cơ sở giam giữ; người có dấu hiệu mắc bệnh tâm thần hoặc một bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình nhưng chưa được giám định, đang chờ kết quả giám định hoặc đang chờ đưa đi cơ sở bắt buộc chữa bệnh.
Ngoài ra, Điều 18 cũng quy định đối với việc tạm giam, tạm giữ người đồng tính, người chuyển giới, có thể được bố trị tạm giữ, tạm giam ở buồng riêng. Người mắc bệnh truyền nhiễm nhóm A, người bị kết án tử hình, người có dấu hiệu mắc bệnh tâm thần hoặc một bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình nhưng chưa được giám định, đang chờ kết quả giám định hoặc đang chờ đưa đi cơ sở bắt buộc chữa bệnh và phụ nữ có thai hoặc có con dưới 36 tháng tuổi cũng được áp dụng quyền giam giữ ở khu riêng.
Tại Khoản 2 Điều luật này cũng quy định việc không giam giữ chung buồng những người trong cùng một vụ án đang trong giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử. Trong trường hợp đặc biệt, do điều kiện thực tế mà nhà tạm giữ, trại tạm giam không thể đáp ứng được yêu cầu giam giữ riêng hoặc để bảo đảm yêu cầu điều tra, truy tố, xét xử, bảo đảm an toàn cho người bị tạm giữ, người bị tạm giam thì Trưởng nhà tạm giữ, Giám thị trại tạm giam, Trưởng buồng tạm giữ đồn biên phòng phối hợp với cơ quan đang thụ lý vụ án quyết định bằng văn bản những người được giam giữ chung.
Người bị tạm giữ, người bị tạm giam có quyền được bảo vệ an toàn tính mạng, thân thể, tài sản, tôn trọng danh dự, nhân phẩm; được phổ biến các quyền và nghĩa vụ của mình, nội quy của cơ sở giam giữ. Những người này được thực hiện quyền bầu cử theo quy định của Luật bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân, quyền bỏ phiếu trưng cầu ý dân theo quy định của Luật trưng cầu ý dân. Bên cạnh đó, họ còn được bảo đảm chế độ ăn, ở, mặc, đồ dùng sinh hoạt cá nhân, chăm sóc y tế, sinh hoạt tinh thần, gửi, nhận thư, nhận quà, nhận sách, báo và tài liệu; gặp thân nhân, người bào chữa, tiếp xúc lãnh sự; được hướng dẫn, giải thích và bảo đảm thực hiện quyền tự bào chữa, nhờ người bào chữa, trợ giúp pháp lý.
Tuy nhiên, chiếu theo đúng quy định pháp luật, không phải tất cả đối tượng được tạm giam, tạm giữ ở buồng riêng được áp dụng trong mọi trường hợp. Căn cứ vào tình hình, mức độ cụ thể của đối tượng và điều kiện thực tế mà người đứng đầu cơ sở giam giữ cân nhắc để quyết định giam giữ ở buồng riêng hay không.
6. Làm chủ lô đề đã bị tạm giam có phải đi tù nữa không?
Làm chủ lô đề đã bị tạm giam có phải đi tù nữa không? Đã bị tạm giam để điều tra có phải chấp hành hình phạt tù nữa không?
Tóm tắt câu hỏi:
Em bị bắt về tội làm chủ lô đề. Tiền khi bị bắt trong người có 7 triệu, em đã bị tạm giam 3 tháng. Cho em hỏi khi xử tòa em có bị phạt giam nữa không ?
Luật sư tư vấn:
Trường hợp của bạn được quy định tại Điều 248 “Bộ luật hình sự 2015” sửa đổi bổ sung 2009
1. Người nào tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc trái phép với quy mô lớn hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi quy định tại Điều này và Điều 248 của Bộ luật này hoặc đã bị kết án về một trong các tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt tiền từ mười triệu đồng đến ba trăm triệu đồng hoặc phạt tù từ một năm đến năm năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ ba năm đến mười năm:
a) Có tính chất chuyên nghiệp;
b) Thu lợi bất chính lớn, rất lớn hoặc đặc biệt lớn;
c) Tái phạm nguy hiểm.
3. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến một trăm triệu đồng, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.”
Luật sư tư vấn pháp luật hình sự qua tổng đài:1900.6568
Theo bạn trình bày, bạn làm chủ lô đề, khi bị bắt trong người bạn có 7 triệu đồng. Tùy vào trường hợp, bạn có thể bị phạt tiền hoặc phạt tù hoặc vừa phạt tù (hình phạt chính) vừa phạt tiền (hình phạt bổ sung). Đối với hình phạt tù, mức thấp nhất là 1 năm tù và có thể hưởng án treo hoặc chấp hành án tại trạm giam. Nếu bạn bị phạt tiền hoặc phạt tù nhưng được hưởng án treo bạn sẽ không bị giam nữa. Nếu bạn bị phạt tù có thời hạn thì bạn phải chấp hành hình phạt này nhưng theo quy định tại Điều 33 “Bộ luật hình sự 2015” thì:
Thời gian tạm giữ, tạm giam được trừ vào thời hạn chấp hành hình phạt tù, cứ một ngày tạm giữ, tạm giam bằng một ngày tù.
Vậy, nếu thời hạn phạt tù nhiều hơn 3 tháng bạn sẽ phải chấp hành nốt thời gian bị giam còn lại sau khi trừ đi thời gian đã bị tạm giam.