Khám chỗ ở, chỗ làm việc, địa điểm, đồ vật, thư tín, bưu điện tín là gì? Khám chỗ ở, chỗ làm việc, địa điểm, đồ vật, thư tín, bưu điện tín tiếng Anh là gì? Quy định về Khám chỗ ở, chỗ làm việc, địa điểm, đồ vật, thư tín, bưu điện tín?
Không ai được xâm phạm trái pháp luật chỗ ở, đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình, an toàn và bí mật thư tín, điện thoại, điện tín và các hình thức trao đổi thông tin riêng tư khác của cá nhân. Việc khám xét chỗ ở; khám xét, tạm giữ và thu giữ thư tín, điện thoại, điện tín, dữ liệu điện tử và các hình thức trao đổi thông tin riêng tư khác phải được thực hiện theo quy định của Bộ luật này. Chính vì vậy mà thì khi tiến hành khám chỗ ở, chỗ làm việc, địa điểm, đồ vật, thư tín, bưu điện tín phải cần có lệnh khám trừ những trường hợp khẩn cấp để ngăn chặn tội phạm. Vậy pháp luật quy định như thế nào về biện pháp khám chỗ ở, chỗ làm việc, địa điểm, đồ vật, thư tín, bưu điện tín?
Căn cứ pháp lý :
–
1. Khám chỗ ở, chỗ làm việc, địa điểm, đồ vật, thư tín, bưu điện tín là gì?
Khám xét là biện pháp điều tra do những chủ thể có thẩm quyền tiến hành bằng cách lục soát, tìm kiếm trong người, đồ vật, chỗ ở, chỗ làm việc, địa điểm, thư tín bưu kiện, bưu phẩm của một người nhằm phát hiện và thu giữ công cụ, phương tiện phạm tội; đồ vật, tài sản do phạm tội mà có hoặc đồ vật tài liệu khác có liên quan trực tiếp đến vụ án hình sự.
Khám chỗ ở, chỗ làm việc, địa điểm, đồ vật, thư tín, bưu điện tín là một trong những biện pháp điều tra của Cơ quan chủ thể có thẩm quyền tiến hành việc lục soát, tìm kiếm đồ vật chỗ ở, chỗ làm việc, địa điểm, thư tín bưu kiện, bưu phẩm của một người nào đó liên quan trực tiếp đến vụ án hình sự để nhằm phục vụ cho việc giải quyết vụ án hình sự của Cơ quan, chủ thể có thẩm quyền.
2. Khám chỗ ở, chỗ làm việc, địa điểm, đồ vật, thư tín, bưu điện tín tiếng Anh là gì?
Khám chỗ ở, chỗ làm việc, địa điểm, đồ vật, thư tín, bưu điện tín tiếng Anh là ” Search of residence, workplace, area and vehicle”
3. Quy định về Khám chỗ ở, chỗ làm việc, địa điểm, đồ vật, thư tín, bưu điện tín
Khám xét chỗ ở, nơi làm việc, địa điểm, phương tiện được quy định tại Điều 195,
“1. Khi khám xét chỗ ở thì phải có mặt người đó hoặc người từ đủ 18 tuổi trở lên cùng chỗ ở, có đại diện chính quyền xã, phường, thị trấn và người chứng kiến; trường hợp người đó, người từ đủ 18 tuổi trở lên cùng chỗ ở cố tình vắng mặt, bỏ trốn hoặc vì lý do khác họ không có mặt mà việc khám xét không thể trì hoãn thì việc khám xét vẫn được tiến hành nhưng phải có đại diện chính quyền xã, phường, thị trấn nơi khám xét và hai người chứng kiến.
Không được bắt đầu việc khám xét chỗ ở vào ban đêm, trừ trường hợp khẩn cấp nhưng phải ghi rõ lý do vào biên bản.
2. Khi khám xét nơi làm việc của một người thì phải có mặt người đó, trừ trường hợp không thể trì hoãn nhưng phải ghi rõ lý do vào biên bản.
Việc khám xét nơi làm việc phải có đại diện của cơ quan, tổ chức nơi người đó làm việc chứng kiến. Trong trường hợp không có đại diện cơ quan, tổ chức thì việc khám xét vẫn được tiến hành nhưng phải có đại diện chính quyền xã, phường, thị trấn nơi khám xét và 02 người chứng kiến.
3. Khi khám xét địa điểm phải có đại diện chính quyền xã, phường, thị trấn nơi khám xét và người chứng kiến.
4. Việc khám xét phương tiện phải có mặt chủ sở hữu hoặc người quản lý phương tiện và người chứng kiến. Trường hợp chủ sở hữu hoặc người quản lý phương tiện vắng mặt, bỏ trốn hoặc vì lý do khác họ không có mặt mà việc khám xét không thể trì hoãn thì việc khám xét vẫn được tiến hành nhưng phải có hai người chứng kiến.
Khi khám xét phương tiện có thể mời người có chuyên môn liên quan đến phương tiện tham gia.
5. Khi tiến hành khám xét chỗ ở, nơi làm việc, địa điểm, phương tiện, những người có mặt không được tự ý rời khỏi nơi đang bị khám, không được liên hệ, trao đổi với nhau hoặc với những người khác cho đến khi khám xét xong.”
Căn cứ khám chỗ ở, nơi làm việc, địa điểm, phương tiện, tài liệu, đồ vật, thư tín, điện tín, bưu kiện bao gồm những căn cứ sau đây:
+ Việc khám chỗ ở, nơi làm việc, địa điểm, phương tiện chỉ được tiến hành khi có căn cứ để nhận định trong người, chỗ ở, nơi làm việc, địa điểm, phương tiện có công cụ, phương tiện phạm tội, tài liệu, đồ vật, tài sản do phạm tội mà có hoặc đồ vật, dữ liệu điện tử, tài liệu khác có liên quan đến vụ án.
Việc khám xét chỗ ở, nơi làm việc, địa điểm, phương tiện cũng được tiến hành khi cần phát hiện người đang bị truy nã, truy tìm và giải cứu nạn nhân.
+ Khi có căn cứ để nhận định trong thư tín, điện tín, bưu kiện, bưu phẩm, dữ liệu điện tử có công cụ, phương tiện phạm tội, tài liệu, đồ vật, tài sản liên quan đến vụ án thì có thể khám xét thư tín, điện tín, bưu kiện, bưu phẩm, dữ liệu điện tử.
Thẩm quyền ra lệnh khám chỗ ở, chỗ làm việc, địa điểm, đồ vật, thư tín, bưu điện tín bao gồm những chủ thể sau đây:
Ban đọc có thể tham khảo chi tiết thẩm quyền ra lệnh khám được quy định cụ thể tại Điều 193, Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015. Dưới đây là phân tích về thẩm quyền ra lệnh khám:
Thẩm quyền ra lệnh khám xét theo Bộ luật tố tụng Hình sự là một trong những quy định trong Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015. Trong đó sẽ quy định về những Cơ quan, chủ thể có thẩm quyền ra lệnh khám xét trong nhiều trường hợp cần ngăn chặn tội phạm và những hành vi tội phạm.
Theo quy định tại khoản 1, Điều 193,
+ Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra các cấp;
+ Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân và Viện trường, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát quân sự các cấp;
+ Chánh án, Phó Chánh án
+ Người được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra của Bộ đội biên phòng, Hải quan, Kiểm lâm, lực lượng Cảnh sát biển, Kiểm ngư … quy định tại khoản 2 Điều 35 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015.
Có thể thấy, thẩm quyền ra lệnh khám xét được trao rộng cho người tiến hành tố tụng của cả 3 cơ quan: Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án nhằm đảm bảo hiệu quả của biện pháp điều tra này. Tuy nhiên, vì biện pháp khám xét là biện pháp ảnh hưởng trực tiếp đến các quyền cơ bản của công dân nên những nhà làm luật cũng quy định, lệnh khám xét của Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra các cấp và người được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra của Bộ đội biên phòng, Hải quan, Kiểm lâm, lực lượng Cảnh sát biển, Kiểm ngư … quy định tại khoản 2 Điều 35 Bộ luật Tố tụng hình sự phải được Viện kiểm sát có thẩm quyền phê chuẩn trước khi thi hành.
Theo quy định tại khoản 2, Điều 193 cũng quy định những người có quyền ra lệnh giữ người trong trường hợp khẩn cấp quy định tại khoản 2, Điều 110, Bộ luật Tố tụng hình sự có quyền ra lệnh khám xét trong trường hợp khẩn cấp, bao gồm:
+ Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra các cấp
+ Thủ trưởng đơn vị độc lập cấp trung đoàn và tương đương, Đồn trưởng Đồn biên phòng, Chỉ huy trưởng Biên phòng Cửa khẩu cảng, Chỉ huy trưởng Bộ đội biên phòng tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, Cục trưởng Cục trinh sát biên phòng Bộ đội biên phòng, Cục trưởng Cục phòng, chống ma túy và tội phạm Bộ đội biên phòng, Đoàn trưởng Đoàn đặc nhiệm phòng, chống ma túy và tội phạm Bộ đội biên phòng; Tư lệnh vùng lực lượng Cảnh sát biển, Cục trưởng Cục Nghiệp vụ và pháp luật lực lượng Cảnh sát biển, Đoàn trường Đoàn đặc nhiệm phòng, chống tội phạm ma túy lực lượng Cảnh sát biển; Chi cục trưởng Chi cục Kiểm ngư vùng;
+ Người chỉ huy tàu bay, tàu biển khi tàu bay, tàu biển đã rời khỏi sân bay, bến càng.
Như vậy, trong trường hợp khẩn cấp nếu không tiến hành khám xét thì bị can sẽ tiêu hủy chứng cứ, tài liệu có ý nghĩa đối với việc giải quyết vụ án, người bị truy nã sẽ bỏ trốn hoặc những người phạm tội sẽ di chuyển nạn nhân bị bắt cóc.
Và đồng thời qua điều 193, Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015 cũng quy định về mọi trường hợp khám xét đều được lập biên bản theo quy định tại Điều 178 của Bộ luật Tố tụng hình sự và đưa vào hồ sơ vụ án hình sự.
– Ngoài ra, các phương tiện, tài liệu, đồ vật, dữ liệu điện tử, thư tín, điện tín, bưu kiện, bưu phẩm bị thu giữ, tạm giữ hoặc bị niêm phong phải được bảo quản nguyên vẹn. Người nào phá hủy niêm phong, tiêu dùng, chuyển nhượng, đánh tráo, cất giấu hoặc hủy hoại phương tiện, tài liệu, đồ vật, dữ liệu điện tử, thư tín, điện tín, bưu kiện, bưu phẩm thì phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy định của Bộ luật hình sự. Người ra lệnh, người thi hành lệnh khám xét, thu giữ, tạm giữ trái pháp luật thì tùy tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của luật.
Đồng thời, việc tạm giữ tài liệu, đồ vật khi tiến hành khám xét được lập biên bản theo quy định tại Điều 133 của Bộ luật Tố tụng Hình sự: Biên bản tạm giữ được lập thành bốn bản, trong đó một bản giao cho người chủ tài liệu, đồ vật hoặc người quản lý tài liệu, đồ vật, một bản đưa vào hồ sơ vụ án, một bản giao cho Viện kiểm sát cùng cấp và một bản giao cho cơ quan quản lý tài liệu, đồ vật bị tạm giữ.