Hiện nay, nạn hàng giả, hàng nhái, hàng kém chất lượng là một trong những vấn đề nhức nhối của xã hội.
Hiện nay, nạn hàng giả, hàng nhái, hàng kém chất lượng là một trong những vấn đề nhức nhối của xã hội. Hệ lụy tiêu cực mà nó mang lại cho xã hội là không nhỏ như ảnh hưởng đến sức khỏe, tài chính của người tiêu dùng, làm suy giảm niềm tin của người tiêu dùng đến tính minh bạch của thị trường hàng hóa, làm giảm uy tín của các nhà sản xuất chân chính….Vì vấn đề nhức nhối trên, Công ty LUẬT DƯƠNG GIA xin nêu ra một số quy định về xử phạt hành vi làm giả hàng hóa:
1. Cơ sở pháp lý:
– Nghị định 08/2013/NĐ-CP về xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi sản xuất, buôn bán hàng giả.
– Một số điều của Bộ luật hình sự năm 1999 quy định về các loại tội sản xuất, buôn bán hàng giả.
2. Các hình thức xử phạt:
Điều 5 Nghị định 08/2013/NĐ-CP quy định về hình thức xử phạt hành chính và các biện pháp khắc phục hậu quả về hành vi làm giả hàng hóa:
– Hình thức phạt tiền quy định tại Nghị định này được áp dụng xử phạt tùy theo hành vi vi phạm, tính chất và mức độ vi phạm, đối tượng vi phạm với mức tiền phạt như sau:
a) Đối với hành vi buôn bán hàng giả: Từ 100.000 đồng đến 70.000.000 đồng;
b) Đối với hành vi sản xuất hàng giả: Từ 200.000 đồng đến 100.000.000 đồng.
– Hình thức xử phạt bổ sung tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm quy định tại Nghị định này được áp dụng trong các trường hợp sau đây:
a) Tang vật quy định tại Điểm b Khoản 4 Điều 3 Nghị định này;
b) Tang vật là loại hàng giả mà nếu áp dụng biện pháp buộc cá nhân, tổ chức vi phạm tự tiêu hủy sẽ ảnh hưởng đến môi sinh, môi trường, sức khỏe con người, vật nuôi, cây trồng và trật tự an toàn xã hội;
c) Tang vật là loại hàng giả không thể loại bỏ yếu tố vi phạm trên nhãn, bao bì sản phẩm, hàng hóa hoặc việc loại bỏ yếu tố vi phạm vẫn dẫn đến khả năng vi phạm tiếp theo;
d) Việc buộc đưa ra khỏi lãnh thổ Việt Nam hoặc buộc tái xuất tang vật là không thể thực hiện được;
đ) Tịch thu phương tiện vi phạm được áp dụng đối với loại phương tiện được cá nhân, tổ chức sử dụng trực tiếp để sản xuất, buôn bán hàng giả và không bao gồm phương tiện vi phạm theo quy định tại Khoản 2 Điều 17 Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính năm 2002 được sửa đổi, bổ sung theo Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính năm 2008 (sau đây gọi tắt là Pháp lệnh) và Khoản 2 Điều 12 Nghị định số 128/2008/NĐ-CP ngày 16 tháng 12 năm 2008 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Pháp lệnh (sau đây gọi tắt là Nghị định số 128/2008/NĐ-CP).
– Hình thức xử phạt tước quyền sử dụng có thời hạn hoặc không thời hạn giấy phép, chứng chỉ hành nghề quy định tại Nghị định này được áp dụng như sau:
a) Chỉ áp dụng đối với cá nhân, tổ chức vi phạm hành chính được cấp giấy phép, chứng chỉ hành nghề;
b) Việc áp dụng hình thức xử phạt tước quyền sử dụng có thời hạn hoặc không thời hạn giấy phép, chứng chỉ hành nghề thực hiện theo quy định tại Điều 16 Pháp lệnh và Điều 11 Nghị định số 128/2008/NĐ-CP.
– Các biện pháp khắc phục hậu quả quy định tại Nghị định này được áp dụng như sau:
a) Buộc cá nhân, tổ chức vi phạm tiêu hủy hàng giả được áp dụng đối với loại hàng giả mà việc tự tiêu hủy không ảnh hưởng đến môi sinh, môi trường, sức khỏe con người, vật nuôi, cây trồng và trật tự an toàn xã hội;
b) Buộc cá nhân, tổ chức vi phạm loại bỏ yếu tố vi phạm trên nhãn, bao bì hàng giả được áp dụng đối với loại hàng giả loại bỏ được yếu tố vi phạm và việc loại bỏ yếu tố vi phạm này không dẫn đến khả năng vi phạm tiếp theo;
>>> Luật sư tư vấn pháp luật trực tuyến qua tổng đài: 1900.6568
c) Buộc đưa ra khỏi lãnh thổ Việt Nam hoặc buộc tái xuất hàng giả đối với hành vi nhập khẩu hàng giả được áp dụng trong trường hợp cá nhân, tổ chức vi phạm có khả năng thực hiện được các biện pháp này;
d) Buộc nộp lại số tiền thu được vào ngân sách nhà nước được áp dụng đối với cá nhân, tổ chức vi phạm có thu lợi bất chính, bao gồm toàn bộ số tiền thu được từ sản xuất, buôn bán hàng giả;
đ) Buộc thu hồi tiêu hủy hoặc buộc thu hồi loại bỏ yếu tố vi phạm được áp dụng đối với số hàng giả mà cá nhân, tổ chức vi phạm đã tiêu thụ, đã bán còn đang lưu thông trên thị trường..
Ngoài ra Bộ luật hình sự năm 1999 có quy định về xử phạt hành vi sản xuất, buôn bán hàng giả tại Điều 156. Theo quy định tại khoản 1 Điều 156 Bộ luật hình sự, người nào sản xuất, buôn bán hàng giả tương đương với số lượng của hàng thật có giá trị từ ba mươi triệu đồng đến dưới một trăm năm mươi triệu đồng hoặc dưới ba mươi triệu đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi quy định tại Điều này… sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội sản xuất, buôn bán hàng giả.
3. Thủ tục xử phạt:
Điều 15. Thủ tục xử phạt về hành vi làm giả hàng hóa:
– Thủ tục xử phạt, thời hạn xử phạt, thủ tục chuyển hồ sơ vụ vi phạm có dấu hiệu tội phạm, chuyển hồ sơ vụ vi phạm để xử phạt vi phạm hành chính, chấp hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính thực hiện theo quy định của Pháp lệnh và Nghị định số 128/2008/NĐ-CP.
– Thẩm quyền, thủ tục áp dụng các biện pháp cưỡng chế thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính được thực hiện theo quy định tại Nghị định số 37/2005/NĐ-CP ngày 18 tháng 3 năm 2005 của Chính phủ quy định thủ tục áp dụng các biện pháp cưỡng chế thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính.
– Các vụ việc xử phạt vi phạm hành chính đều phải lập hồ sơ và lưu giữ đầy đủ theo đúng quy định của pháp luật.
– Người có thẩm quyền xử phạt hành chính có trách nhiệm công bố công khai thông tin về tên, địa chỉ cá nhân, tổ chức sản xuất, buôn bán hàng giả bị xử phạt, loại hàng giả, các dấu hiệu nhận biết hàng giả, địa bàn hoặc địa điểm phát hiện hàng giả trên trang thông tin điện tử của cơ quan mình hoặc cung cấp các thông tin này cho các cơ quan thông tin đại chúng.
4. Cơ quan có thẩm quyền:
Nghị định 08/2013/NĐ-CP quy định về thẩm quyền xử phạt của một số cơ quan hành chính nhà nước:
Điều 16. Thẩm quyền xử phạt của Ủy ban nhân dân các cấp
Điều 17. Thẩm quyền xử phạt của cơ quan Quản lý thị trường
Điều 18. Thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính của các cơ quan công an, hải quan, bộ đội biên phòng, cảnh sát biển, thanh tra chuyên ngành.