Những đồ vật, cổ vật có giá trị được phát hiện dưới biển đang thu hút sự quan tâm của nhiều người. Vậy xác lập quyền sở hữu với tài sản bị chìm dưới biển tìm thấy được pháp luật quy định như thế nào?
Mục lục bài viết
1. Xác lập quyền sở hữu với tài sản bị chìm dưới biển tìm thấy:
Việc xác lập quyền sở hữu đối với tài sản dưới biển tìm thấy là một quá trình phức tạp và phụ thuộc vào nhiều yếu tố, bao gồm vị trí của tài sản, quốc gia mà tài sản đó được phát hiện, và các hiệp định quốc tế liên quan đến việc này. Dưới đây là một số quy định quan trọng liên quan đến xác lập quyền sở hữu với tài sản bị chìm dưới biển tìm thấy:
1.1. Các Hiệp định Quốc tế:
Hiệp định quốc tế quan trọng nhất trong việc xác lập quyền sở hữu với tài sản dưới biển là Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển năm 1982, còn được gọi là UNCLOS (United Nations Convention on the Law of the Sea). UNCLOS xác định quyền của các quốc gia về lãnh thổ biển, quyền đặt câu lạc bộ, và việc xác lập quyền sở hữu đối với tài sản dưới biển.
1.2. Quy định pháp luật quốc gia:
Ngoài UNCLOS, các quốc gia cũng có quy định và luật pháp riêng để quản lý tài sản dưới biển thuộc lãnh thổ của họ. Các quy định này có thể đề cập đến việc cấp phép khai thác, quyền sở hữu, và việc chia sẻ giá trị tài sản phát hiện.
1.3. Hiệp định Liên kết và Giao dịch:
Trong trường hợp tài sản dưới biển được tìm thấy ở biên giới của hai hoặc nhiều quốc gia, việc xác lập quyền sở hữu có thể được quy định bằng các hiệp định liên kết giữa các quốc gia hoặc thông qua giao dịch thương mại.
Có thể thấy, việc xác lập quyền sở hữu với tài sản dưới biển tìm thấy không chỉ là một vấn đề quốc gia mà còn là một thách thức quốc tế. Các vụ tranh chấp quyền sở hữu về tài sản dưới biển có thể dẫn đến mâu thuẫn và xung đột, đặc biệt khi giá trị của tài sản rất lớn.
Pháp luật về xác lập quyền sở hữu đối với tài sản dưới biển đóng vai trò quan trọng trong việc duy trì sự công bằng và bảo vệ quyền của các bên liên quan. Điều này giúp thúc đẩy sự phát triển bền vững của hoạt động tìm kiếm và khai thác tài sản dưới biển, đồng thời giúp bảo vệ môi trường biển và các di tích lịch sử quý báu.
2. Căn cứ xác lập Quyền Sở hữu với tài sản bị chìm dưới biển tìm thấy:
Trong các căn cứ xác lập quyền sở hữu hợp pháp,
Cụ thể, các chủ thể liên quan phải thực hiện các hành động sau:
– Người phát hiện tài sản bị chôn, giấu, bị lấp, chìm đắm phải
– Sở Tài chính có trách nhiệm lập danh mục tài sản, ghi rõ số lượng theo từng loại tài sản bị chôn, giấu, bị lấp, chìm đắm được tìm thấy. Họ cũng phải chủ trì và phối hợp với các cơ quan có liên quan để thực hiện giám định tài sản và xác định chủ sở hữu của tài sản bị tìm thấy.
Trường hợp xác định chủ sở hữu hợp pháp
– Nếu trong quá trình xác lập quyền sở hữu, tài sản được tìm thấy và chủ sở hữu hợp pháp có thể được xác định, tài sản sẽ thuộc về chủ sở hữu đó theo quy định của pháp luật.
– Nếu chúng ta xác định được chủ sở hữu hợp pháp của tài sản, quá trình trả lại tài sản cho chủ sở hữu hợp pháp được thực hiện theo các quy định sau đây:
+ Cơ quan hoặc đơn vị tiếp nhận và bảo quản tài sản tổ chức việc trả lại tài sản cho chủ sở hữu hợp pháp dựa trên quyết định phê duyệt phương án xử lý tài sản bị chôn, giấu, bị vùi lấp, chìm đắm mà cơ quan hoặc người có thẩm quyền đã chấp thuận. Các cơ quan và đơn vị này bao gồm Bảo tàng cấp tỉnh, Bộ chỉ huy quân sự cấp tỉnh, Cảng vụ hàng hải, Sở tài chính và những cơ quan có thẩm quyền khác theo quy định của pháp luật. Chúng tiếp nhận và bảo quản tài sản theo thẩm quyền của mình theo quy định của luật.
+ Trong vòng 30 ngày, tính từ ngày có quyết định phê duyệt phương án trả lại tài sản từ cơ quan hoặc người có thẩm quyền, cơ quan hoặc đơn vị tiếp nhận và bảo quản tài sản quy định như đã nêu trên phải thực hiện việc trả lại tài sản cho chủ sở hữu hợp pháp. Quá trình trả lại tài sản sẽ được ghi nhận trong biên bản, và chủ sở hữu tài sản sẽ phải thanh toán các khoản chi phí hợp lý liên quan đến việc tìm kiếm, thăm dò, khai quật, trục vớt, bảo quản và việc tìm chủ sở hữu tài sản.
Lưu ý về trường hợp không xác định chủ sở hữu hợp pháp:
Trong trường hợp không thể xác định được chủ sở hữu hợp pháp của tài sản, thì việc xử lý tùy thuộc vào loại tài sản:
– Trường hợp tài sản không thuộc di tích lịch sử – văn hoá: Trường hợp tài sản không thuộc di tích lịch sử – văn hoá, theo quy định của Luật di sản văn hoá, quyền sở hữu đối với tài sản được xác định như sau:
+ Nếu giá trị của tài sản nhỏ hơn hoặc bằng mười lần mức lương cơ sở do Nhà nước quy định (tại thời điểm tìm thấy và giao nộp tài sản), sau khi trừ đi các khoản chi phí hợp lý liên quan (bao gồm chi phí tìm chủ sở hữu, vận chuyển, bảo quản, và xác định giá trị tài sản), thì tài sản thuộc về cá nhân hoặc tổ chức phát hiện tài sản.
+ Nếu giá trị của tài sản lớn hơn mười lần mức lương cơ sở do Nhà nước quy định (tại thời điểm tìm thấy và giao nộp tài sản), sau khi trừ đi các chi phí hợp lý liên quan, cá nhân hoặc tổ chức phát hiện tài sản sẽ được hưởng giá trị bằng mười lần mức lương cơ sở do Nhà nước quy định và 50% giá trị của phần vượt quá mười lần mức lương cơ sở do Nhà nước quy định. Phần giá trị còn lại sẽ thuộc về Nhà nước.
– Trường hợp tài sản thuộc di tích lịch sử – văn hoá: Nếu tài sản được tìm thấy thuộc di tích lịch sử – văn hoá theo quy định của Luật di sản văn hóa, thì tài sản này sẽ thuộc về Nhà nước. Người tìm thấy tài sản này sẽ được hưởng một khoản tiền thưởng theo quy định của pháp luật, sau khi đã trừ đi các chi phí liên quan đến việc tìm kiếm, bảo quản và quyền sở hữu đối với tài sản. Cụ thể:
+ Nếu tỷ lệ trích thưởng sẽ là 30% của phần giá trị của tài sản, nếu giá trị của tài sản không vượt quá 10 triệu đồng.
+ Nếu phần giá trị của tài sản nằm trong khoảng từ 10 triệu đồng đến 100 triệu đồng, tỷ lệ trích thưởng sẽ là 15%.
+ Nếu phần giá trị của tài sản nằm trong khoảng từ 100 triệu đồng đến 1 tỷ đồng, tỷ lệ trích thưởng sẽ là 7%.
+ Với phần giá trị của tài sản nằm trong khoảng từ 1 tỷ đồng đến 10 tỷ đồng, tỷ lệ trích thưởng sẽ là 1%.
+ Đối với phần giá trị của tài sản trên 10 tỷ đồng, tỷ lệ trích thưởng là 0.5%.
+ Trong trường hợp tổ chức hoặc cá nhân phát hiện và cung cấp thông tin chính xác về tài sản bị chôn, giấu, bị vùi lấp, chìm đắm, nếu tài sản này thuộc di tích lịch sử – văn hoá, bảo vật quốc gia, di vật, cổ vật, hoặc tài sản thuộc lĩnh vực quốc phòng, an ninh quốc gia, thì mức tiền thưởng sẽ bằng 50% của các mức thưởng tương ứng quy định tại điểm a Khoản 5 Điều 30 của Nghị định số 29/2018/NĐ-CP.
Thẩm quyền Xác lập Quyền Sở hữu toàn dân: Quyền xác lập quyền sở hữu của toàn dân đối với tài sản bị chôn, giấu, bị vùi lấp, chìm đắm được tìm thấy nằm dưới thẩm quyền của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo quy định của pháp luật. Căn cứ Điểm a Khoản 6 Điều 7 Nghị định số 29/2018/NĐ-CP quy định thì người có thẩm quyền xác lập quyền sở hữu toàn dân về tài sản bị chôn, giấu, bị vùi lấp, chìm đắm được tìm thấy là Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh hoặc người có thẩm quyền được Hội đồng nhân dân cấp tỉnh phân cấp
3. Thủ tục xác lập quyền sở hữu tài sản bị chìm dưới biển tìm thấy:
Thủ tục để xác lập quyền sở hữu toàn dân đối với tài sản bị chôn, giấu, bị vùi lấp, chìm đắm được quy định cụ thể trong Điều 10 của Nghị định số 29/2018/NĐ-CP, cụ thể:
Trong khoảng thời gian 07 ngày làm việc, tính từ ngày hoàn thành thủ tục xác định chủ sở hữu theo quy định của pháp luật về dân sự và các pháp luật có liên quan, mà không thể xác định được ai là chủ sở hữu của tài sản bị chôn, giấu, bị vùi lấp, chìm đắm, Sở Tài chính sẽ tổ chức lập 01 bộ hồ sơ và nộp cho Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh hoặc người có thẩm quyền, theo quy định của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh, để đề xuất xác lập quyền sở hữu toàn dân.
Trong đó, hồ sơ đề nghị xác lập quyền sở hữu toàn dân về tài sản gồm có:
– 01 bản báo cáo về quá trình xác định chủ sở hữu của tài sản bị chôn, giấu, vùi lấp, hoặc chìm đắm, bắt đầu từ khi tài sản được phát hiện.
– 01 Một bản bảng kê chi tiết ghi rõ về loại, số lượng, khối lượng, và tình trạng hiện tại của tài sản.
– 01 Bản sao của bất kỳ hồ sơ hoặc tài liệu nào liên quan đến quá trình xác định chủ sở hữu của tài sản (nếu có).
Những văn bản pháp luật được sử dụng trong bài viết:
– Nghị định 29/2018/NĐ-CP về trình tự, thủ tục xác lập quyền sở hữu toàn dân về tài sản; xử lý với tài sản được xác lập quyền sở hữu toàn dân.