Hiện nay, các hợp đồng giả tạo nhằm tẩu tán tài sản rất phổ biến, vì các hợp đồng này được lập ra giúp cho bên có nghĩa vụ trốn tránh trách nhiệm với bên có quyền. Dưới đây là quy định của pháp luật về những trường hợp xác lập hợp đồng giả tạo nhầm tẩu tán tài sản.
Mục lục bài viết
1. Trường hợp xác lập hợp đồng giả tạo nhằm tẩu tán tài sản:
Pháp luật hiện nay đã có quy định cụ thể về giao dịch dân sự giả tạo, trong đó hợp đồng cũng được coi là một hình thức của giao dịch dân sự. Căn cứ theo quy định tại Điều 116 của Bộ luật dân sự năm 2015, giao dịch dân sự bao gồm hợp đồng hoặc hành vi pháp lý đơn phương có thể làm phát sinh hoặc thay đổi hoặc chấm dứt quyền và nghĩa vụ dân sự của các chủ thể. Trong đó, hợp đồng chính là sự thỏa thuận của các bên về việc xác lập hoặc thay đổi hoặc chấm dứt quyền và nghĩa vụ dân sự mà không bị lừa dối dưới bất kỳ hình thức nào, căn cứ theo quy định tại Điều 385 của Bộ luật dân sự năm 2015. Bên cạnh đó, một giao dịch dân sự sẽ chỉ có hiệu lực khi đảm bảo đầy đủ các yếu tố sau:
– Chủ thể tiến hành giao dịch dân sự có đầy đủ năng lực pháp luật dân sự và năng lực hành vi dân sự phù hợp với các giao dịch dân sự được xác lập trên thực tế;
– Chủ thể tham gia giao dịch dân sự hoàn toàn tự nguyện và không bị ép buộc dưới bất kỳ hình thức nào;
– Mục đích và nội dung của các giao dịch dân sự không trái đạo đức xã hội và không vi phạm điều cấm của pháp luật;
– Đối với những giao dịch dân sự có điều kiện về hình thức thì cần phải tuân thủ theo quy định của pháp luật.
Ngoài ra, căn cứ theo quy định tại Điều 124 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 thì có thể hiểu, khi các bên tiến hành hoạt động xác lập giao dịch dân sự (trong đó có hợp đồng) một cách giả tạo nhằm mục đích che giấu một giao dịch dân sự khác thì giao dịch dân sự giả tạo đó sẽ bị coi là vô hiệu trên thực tế, còn những giao dịch dân sự bị che giấu đằng sau giao dịch giả tạo vẫn sẽ có hiệu lực, trừ trường hợp giao dịch đó cũng vô hiệu theo quy định của Bộ luật dân sự năm 2015 và các văn bản quy phạm pháp luật khác có liên quan. Vì vậy, có thể kể đến hai loại hợp đồng dân sự giả tạo, đó là:
Thứ nhất, hợp đồng giả tạo nhằm che dấu một hợp đồng khác.
Thứ hai, hợp đồng giả tạo nhằm mục đích tẩu tán tài sản trốn tránh nghĩa vụ đối với người thứ ba. Trong trường hợp này, giao dịch dân sự được xác lập có sự tự nguyện khi thể hiện ý chí của các bên, tuy nhiên trên thực tế thì sự thể hiện ý chí này lại nhằm mục đích trốn tránh nghĩa vụ với một chủ thể khác. Tất cả những chủ thể tham gia giao dịch đã tồn tại một nghĩa vụ với một chủ thể khác, do đó để trốn tránh nghĩa vụ này, chủ thể đã xác lập giao dịch giả tạo.
Ví dụ: Nhằm mục đích trốn tránh nghĩa vụ trả nợ trong một hợp đồng vay tài sản, ông Đạt đã tiến hành hoạt động kí hợp đồng giả tạo bán nhà cho người thân của mình là chị Hồng để tránh trương hợp ngôi nhà đó có thể bị xử lí đê thực hiện nghĩa vụ của ông Đạt.
Vì thế, hợp đồng giả tạo nhằm tẩu tán tài sản có mục đích cuối cùng là trốn tránh nghĩa vụ với người khác. Vì vậy, hợp đồng giả tạo này sẽ phải chịu hậu quả pháp lý theo quy định của pháp luật, tức là hợp đồng đó sẽ bị vô hiệu. Căn cứ theo quy định tại Điều 131 của Bộ luật dân sự năm 2015, hậu quả pháp lý của hợp đồng vô hiệu được quy định như sau:
– Không làm phát sinh hoặc thay đổi hoặc chấm dứt quyền và nghĩa vụ dân sự của các bên được tính kể từ thời điểm hợp đồng giả tạo được xác lập;
– Khôi phục lại tình trạng ban đầu và hoàn trả cho nhau những gì đã nhận, trong trường hợp các bên không thể hoàn trả bằng hiện vật thì sẽ xác định giá thành tiền để hoàn trả;
– Bên ngay tình trong việc thu hoa lợi và lợi tức phát sinh từ hợp đồng giả tạo sẽ không phải hoàn trả lại các khoản hoa lợi và lợi tức đó;
– Bên có lỗi gây ra thiệt hại thì phải bồi thường thiệt hại giữa trên thiệt hại thực tế đã xảy ra. Và việc giải quyết hậu quả của hợp đồng vô hiệu do giả tạo liên quan đến quyền nhân thân sẽ thực hiện theo đúng quy định của Bộ luật dân sự năm 2015.
2. Hướng xử lý đối với hợp đồng giả tạo nhằm tẩu tán tài sản:
Hợp đồng giả tạo nhằm mục đích tạo tán tài sản sẽ bị tuyên bố là giao dịch dân sự vô hiệu và phải chịu hậu quả pháp lý theo Điều 131 của Bộ luật dân sự năm 2015 như phân tích ở trên. Căn cứ theo quy định tại Điều 122 của Bộ luật dân sự năm 2015 thì giao dịch dân sự vô hiệu được nhìn nhận là những giao dịch không đáp ứng được đầy đủ các điều kiện có hiệu lực tại Điều 117 của Bộ luật dân sự năm 2015. Những giao dịch này sẽ bị tuyên bố vô hiệu, chứ pháp luật không quy định về việc “hủy giao dịch” đối với những hợp đồng giả tạo nhằm tầu tán tài sản và trốn tránh nghĩa vụ với bên thứ ba. Thẩm quyền tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu sẽ thuộc về tòa án. Pháp luật cũng quy định cụ thể về thời hiệu yêu cầu tòa án tuyên bố hợp đồng vô hiệu.
Căn cứ theo quy định tại Điều 688 của Bộ luật dân sự năm 2015, thì tất cả các giao dịch được xác lập trước ngày Bộ luật dân sự năm 2015 có hiệu lực, thì thời hiệu được áp dụng sẽ được thực hiện theo quy định của bộ luật này. Vì vậy có thể nói, việc xác định thời hiệu yêu cầu tuyên bố hợp đồng vô hiệu không phải áp dụng pháp luật ở thời điểm xác lập giao dịch mà chỉ áp dụng quy định của Bộ luật dân sự. Thời hiệu yêu cầu tòa án tuyên bố hợp đồng dân sự vô hiệu được quy định cụ thể tại Điều 132 của Bộ luật dân sự năm 2015, trong đó có quy định quan trọng đó là, thời hạn tuyên bố hợp đồng dân sự vô hiệu được xác định là 02 năm kể từ ngày giao dịch được xác lập giả tạo, hết thời hiệu mà không có yêu cầu tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu thì giao dịch dân sự đó sẽ có hiệu lực pháp luật.
3. Quy định về các biện pháp ngăn chặn việc tẩu tán tài sản:
Biện pháp ngăn chặn việc tẩu tán tài sản đóng vai trò vô cùng quan trọng. Pháp luật hiện nay cũng quy định cụ thể về các biện pháp ngăn chặn quá trình tẩu tán tài sản của các đối tượng trong xã hội. Căn cứ theo quy định tại Điều 111 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 thì có thể ngăn chặn hoạt động tẩu tán tài sản thông qua hình thức hợp đồng bằng một trong những biện pháp cơ bản sau:
– Trong quá trình giải quyết vụ việc thì các đương sự có quyền yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền đó là tòa án áp dụng một hoặc nhiều biện pháp khẩn cấp tạm thời, những biện pháp khẩn cấp tạm thời có thể kể đến như: kê biên tài sản, cấm dịch chuyển về quyền tài sản đối với các tài sản đang tranh chấp, phong tỏa tài khoản …;
– Trường hợp do tình thế khẩn cấp thì các cơ quan và tẩu chức hoặc cá nhân có quyền yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền đó là tòa án ra quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời, và đồng thời với đó là việc nộp đơn khởi kiện cho tòa án cấp có thẩm quyền.
Nhìn chung thì việc áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời sẽ giúp ngăn chặn hiệu quả các hợp đồng giả tạo được giao kết nhằm mục đích tạo tán tài sản, phổ biến nhất là các giao dịch liên quan đến đất đai, qua đó có thể đảm bảo được việc thực hiện nghĩa vụ của bên có nghĩa vụ.
Các văn bản pháp luật được sử dụng trong bài viết:
– Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;
– Bộ luật Dân sự năm 2015.