Phân chia di sản thừa kế là công việc thường được thực hiện khi người để lại di sản thừa kế chết. Vậy trong thời hạn bao lâu thì có thể yêu cầu phân chia di sản thừa kế? Thời hiệu khởi kiện phân chia di sản thừa kế là bao nhiêu lâu?
Mục lục bài viết
- 1 1. Thời hiệu khởi kiện phân chia di sản thừa kế là bao nhiêu lâu?
- 2 2. Nếu hết thời hiệu khởi kiện phân chia di sản thừa kế mà không có yêu cầu thì di sản sẽ được phân chia như thế nào?
- 3 3. Thời gian không tính vào thời hiệu khởi kiện yêu cầu phân chia di sản thừa kế:
- 4 4. Xác định thời hiệu thừa kế và thời điểm tính thời hiệu thừa kế:
1. Thời hiệu khởi kiện phân chia di sản thừa kế là bao nhiêu lâu?
Theo quy định tại khoản 3 Điều 150 Bộ luật Dân sự năm 2015 thì thời hiệu khởi kiện được xác định là thời hạn mà chủ thể được quyền khởi kiện để yêu cầu Toà án giải quyết vụ án dân sự để bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm phạm. Nếu thời hạn này kết thúc thì người có quyền và lợi ích cần được bảo vệ sẽ mất quyền khởi kiện. Theo quy định của pháp luật về dân sự hiện hành thì thời hiệu khởi kiện yêu cầu phân chia di sản thừa kế sẽ được áp dụng theo quy định tại Điều 623 Bộ luật Dân sự năm 2015.
Căn cứ theo quy định tại Điều 623 Bộ luật Dân sự năm 2015 thì thời hiệu khởi kiện để yêu cầu chia di sản thừa kế được quy định cụ thể như sau:
– Đối với bất động sản thì thời hiệu để người có quyền thừa kế yêu cầu chia di sản là 30 năm; đối với động sản là 10 năm kể từ thời điểm mở thừa kế.
– Thời hiệu để người có quyền hưởng di sản thừa kế yêu cầu xác nhận quyền thừa kế của mình hoặc bác bỏ quyền thừa kế của người khác là 10 năm kể từ thời điểm mở thừa kế;
– Thời hiệu yêu cầu người thừa kế thực hiện các nghĩa vụ về tài sản mà người chết để lại là 03 năm kể từ thời điểm mở thừa kế.
Như vậy, thời hiệu để những người có quyền hưởng di sản thừa kế khởi kiện yêu cầu phân chia di sản thừa kế là 10 năm đối với động sản và 30 năm đối với bất động sản được thừa kế.
2. Nếu hết thời hiệu khởi kiện phân chia di sản thừa kế mà không có yêu cầu thì di sản sẽ được phân chia như thế nào?
Căn cứ theo quy định tại khoản 1 Điều 626 Bộ luật Dân sự năm 2015 thì nếu hết thời hiệu yêu cầu phân chia di sản thừa kế mà không có yêu cầu chia di sản thừa kế thì di sản đó sẽ thuộc về người thừa kế đang quản lý di sản đó. Trong trường hợp di sản thừa kế này khi hết thời hiệu chia di sản thừa kế mà không có người thừa kế đang quản lý di sản thì di sản thừa kế để lại đó được giải quyết như sau:
– Di sản đó sẽ được công nhận là thuộc quyền sở hữu của người đang chiếm hữu theo quy định tại Điều 236 Bộ luật Dân sự năm 2015. Theo quy định này thì người chiếm hữu, người được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật nhưng ngay tình, liên tục, công khai trong thời hạn 10 năm đối với động sản, 30 năm đối với bất động sản thì trở thành chủ sở hữu hợp pháp của tài sản đó, kể từ thời điểm bắt đầu chiếm hữu, trừ trường hợp Bộ luật Dân sự năm 2015 này và những văn bản pháp luật khác có liên quan quy định khác;
– Nếu không có người đang chiếm hữu theo quy định tại điều 236 Bộ luật Dân sự năm 2015 thì di sản thừa kế sẽ thuộc về Nhà nước.
Như vậy, nếu di sản thừa kế khi hết thời hiệu khởi kiện yêu cầu phân chia mà không có người thừa kế đang quản lý thì sẽ chia cho người đang chiếm hữu di sản đó.
3. Thời gian không tính vào thời hiệu khởi kiện yêu cầu phân chia di sản thừa kế:
Khi xác định thời hiệu khởi kiện chia thừa kế để biết được còn thời hạn yêu cầu Toà án giải quyết được hay không thì pháp luật về dân sự hiện hành vẫn tính đến những khoảng thời gian và những trường hợp ngoại lệ để không tính vào thời hiệu khởi kiện yêu cầu giải quyết việc dân sự. Theo đó, tại Điều 156 Bộ luật Dân sự năm 2015 thì những trường hợp, thời gian không tính vào thời hiệu khởi kiện yêu cầu giải quyết việc dân sự (yêu cầu phân chia di sản thừa kế) là những khoảng thời gian xảy ra các sự kiện sau:
– Thời gian xảy ra sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan làm cho chủ thể có quyền khởi kiện, quyền yêu cầu không thể khởi kiện, yêu cầu trong phạm vi thời hiệu đã quy định là 10 năm đối với động sản và 30 năm đối với bất động sản;
– Chưa có người đại diện trong trường hợp người có quyền khởi kiện, người có quyền yêu cầu là người chưa thành niên, mất năng lực hành vi dân sự, có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi hoặc bị hạn chế năng lực hành vi dân sự;
– Người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự chưa có người đại diện khác thay thế trong trường hợp sau đây:
+ Người đại diện chết nếu là cá nhân, chấm dứt tồn tại nếu là pháp nhân;
+ Người đại diện vì lý do chính đáng mà không thể tiếp tục đại diện được.
Như vậy, nếu thực tế đã hết thời hiệu khởi kiện yêu cầu phân chia di sản thừa kế đã hết theo quy định của pháp luật nhưng trong khoảng thời gian đó có xảy ra một trong các sự kiện trên thì cơ quan có thẩm quyền giải quyết sẽ trừ đi những khoảng thời gian xảy ra những sự kiện đó và tính thêm thời hiệu cho những người có yêu cầu khởi kiện phân chia di sản thừa kế.
4. Xác định thời hiệu thừa kế và thời điểm tính thời hiệu thừa kế:
Pháp luật luôn thay đổi theo từng thời kì nên khi sự kiện pháp lý phát sinh tại thời điểm pháp luật nào có hiệu lực sẽ được áp dụng theo quy định của pháp luật đó. Theo đó, vấn đề chia thừa kế được quy định theo các thời kỳ tại Pháp lệnh về thừa kế năm 1990, các Bộ luật Dân sự qua các thời kỳ. Theo đó, việc xác định thời hiệu và thời điểm tính thừa kế sẽ dựa vào thời điểm yêu cầu chia thừa kế đó xảy ra khi nào, khi bộ luật nào có hiệu lực sẽ áp dụng theo quy định của bộ luật đó. Cụ thể như sau:
4.1. Đối với những trường hợp mở thừa kế từ ngày 01/01/2017 khi Bộ luật Dân sự năm 2015 có hiệu lực thi hành thì áp dụng theo quy định của Bộ luật này:
Theo quy định tại Điều 623 Bộ luật Dân sự năm 2015 thì thời điểm bắt đầu tính thời hiệu là kể từ thời điểm mở thừa kế và tại Điều 611 Bộ luật Dân sự 2015 này cũng có quy định thời điểm mở thừa kế là thời điểm người có tài sản chết.
Như vậy, thời điểm để xác định thời hiệu phân chia di sản thừa kế là thời điểm người có di sản để lại chết. Trong trường hợp Toà án tuyên bố một người đã chết thì thời điểm xác định đề mở thừa kế là ngày mà Toà án tuyên bố người đó chết.
4.2. Đối với những trường hợp mở thừa kế trước ngày 01/01/2017 khi Bộ luật Dân sự năm 2015 chưa có hiệu lực thi hành:
Căn cứ theo quy định tại điểm d khoản 1 Điều 688 Bộ luật Dân sự năm 2015 về điều khoản chuyển tiếp quy định về việc xác định thời điểm tính thời hiệu phân chia di sản thừa kế như sau: Đối với giao dịch dân sự (khởi kiện yêu cầu phân chia di sản thừa kế) được xác lập trước ngày Bộ luật Dân sự năm 2015 có hiệu lực (01/01/2017) thì Thời hiệu khởi kiện yêu cầu phân chia di sản thừa kế được áp dụng theo quy định của Bộ luật Dân sự năm 2015.
Bên cạnh đó, kể từ ngày Bộ luật Dân sự năm 2015 có hiệu lực thi hành, áp dụng theo quy định tại điểm d khoản 1 Điều 688 Bộ luật Dân sự năm 2015; theo khoản 4 Điều 4
Còn đối với trường hợp thừa kế mở trước ngày 10-9-1990 thì thời hiệu khởi kiện chia di sản thừa kế là bất động sản được thực hiện theo quy định tại Điều 36 của Pháp lệnh Thừa kế năm 1990 và hướng dẫn tại Nghị quyết số 02/HĐTP ngày 19-10-1990 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của Pháp lệnh Thừa kế, cụ thể là: thời hiệu khởi kiện được tính từ ngày 10-9-1990.
Các văn bản pháp luật được sử dụng trong bài viết:
– Bộ luật Dân sự năm 2015;
– Nghị quyết số 02/2016/NQ-HĐTP của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao ban hành ngày 30 tháng 6 năm 2016 Hướng dẫn thi hành một số quy định của