Trong giải quyết vụ án dân sự, khi có đương sự rút yêu cầu thì Tòa án có thẩm quyền ra quyết đình đình chỉ yêu cầu bị rút, Tại bộ luật tố tụng dân sự có quy định cụ thể về các trường hợp phải thay đổi địa vị tố tụng để giải quyết vu án. Thay đổi địa vị tố tụng là gì? Thay đổi địa vị tố tụng trong tố tụng dân sự được quy định như thế nào?
Mục lục bài viết
1. Thay đổi địa vị tố tụng là gì?
2. Thay đổi địa vị tố tụng trong tố tụng dân sự:
Tại Điều 245. Thay đổi địa vị tố tụng
1. Trường hợp nguyên đơn rút toàn bộ yêu cầu khởi kiện, nhưng bị đơn vẫn giữ nguyên yêu cầu phản tố của mình thì bị đơn trở thành nguyên đơn và nguyên đơn trở thành bị đơn.
2. Trường hợp nguyên đơn rút toàn bộ yêu cầu khởi kiện, bị đơn rút toàn bộ yêu cầu phản tố, nhưng người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vẫn giữ nguyên yêu cầu độc lập của mình thì người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trở thành nguyên đơn, người bị khởi kiện theo yêu cầu độc lập trở thành bị đơn.
Như vậy căn cứ dựa trên quy định chúng tôi nêu như trên thì trong trường hợp này sẽ thay đổi địa vị tố tụng, nghĩa là nếu nguyên đơn rút yêu cầu khởi kiện và bị đơn đồng ý nhưng người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập vẫn giữ yêu cầu độc lập của mình thì người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trở thành nguyên đơn, người bị khởi kiện theo yêu cầu độc lập trở thành bị đơn. Tuy nhiên quan điểm này chưa có cơ sở bởi vì thay đổi địa vị tố tụng theo quy định tại Điều 245 Bộ luật tố tụng dân sự 2015 chỉ áp dụng cho giai đoạn xét xử sơ thẩm, còn giai đoạn xét xử phúc thẩm không có quy định về việc thay đổi địa vị tố tụng.
Theo đó, chúng ta có thể thấy đối với các trường hợp đình chỉ yêu cầu của đương sự theo quy định của pháp luật và có sự thay đổi địa vị tố tụng dẫn đến thay đổi loại án, quan hệ pháp luật tranh chấp thì cùng với việc thay đổi địa vị tố tụng, Như vậy thì Tòa án cần thay đổi quan hệ tranh chấp cũng như loại vụ án cho phù hợp với nội dung tranh chấp đang giải quyết theo quy định của pháp luật.
Đối với việc thay đổi địa vị tố tụng trong bộ luật tố tụng dân sự quy định này cũng cần được thể hiện trong
Ví dụ cụ thể về vấn đề này đó là trong vụ án hôn nhân thường có yêu cầu độc lập đó là yêu cầu độc lập về quan hệ pháp luật dân sự hay trong vụ án dân sự nhưng yêu cầu phản tố lại là quan hệ hôn nhân và gia đình. Như vậy có thể thấy khi còn tồn tại cả hai quan hệ pháp luật tranh chấp song song trong cùng vụ án thì loại vụ án và quan hệ pháp luật tranh chấp được xác định theo yêu cầu của nguyên đơn sẽ không gây nhầm lẫn. Tuy nhiên trong các trường hợp mà có đương sự rút yêu cầu dẫn đến thay đổi địa vị tố tụng mà chỉ còn 01 quan hệ pháp luật tranh chấp (hôn nhân hoặc dân sự) mà không thay đổi loại án, quan hệ pháp luật tranh chấp sẽ rất dễ gây nhầm lẫn bởi vì ngoài quyết định đình chỉ và thông báo thay đổi địa vị tố tụng, Tòa án không hề ban hành thêm văn bản nào khác để giải thích.
Dựa trên quy định của pháp luật dân sự về thay đổi địa vị tố tụng có thể thấy những bất cập đó là về thẩm quyền ban hành quyết định đình chỉ, thông báo thay đổi địa vị tố tụng trong khoảng thời gian từ khi có quyết định đưa vụ án ra xét xử đến trước khi phiên tòa được mở. Như vậy có thể căn cứ theo đó chúng ta có thể nhận thấy pháp luật tố tụng dân sự không quy định rõ nên đã dẫn tới có những quan điểm và ý kiến khác nhau về việc Thẩm phán hay Hội đồng xét xử có thẩm quyền ban hành quyết định đình chỉ, thông báo thay đổi địa vị tố tụng trong khoảng thời gian từ khi có quyết định đưa vụ án ra xét xử đến trước khi phiên tòa được mở.
Chính vì thế nên chúng tôi đưa ra quan điểm của mình về vấn đề này dựa trên những cơ sở thực tế cho thấy do quyết định đưa vụ án ra xét xử đã được ban hành và quyết định này đã được gửi cho những người tham gia tố tụng và gửi cho người tiến hành tố tụng nên về mặt pháp lý đối với việc giải quyết vụ án kể từ thời điểm này thuộc thẩm quyền của Hội đồng xét xử theo quy định pháp luật đề ra. Bên cạnh đó, theo quy định thì Tòa án còn phải mở phiên tòa công khai để giải quyết vấn đề thay đổi địa vị tố tụng và giải quyết yêu cầu còn lại của đương sự. Chính vì vậy nên việc ra quyết định đình chỉ giải quyết yêu cầu bị rút và thay đổi địa vị tố tụng trong khoảng thời gian này phải do Hội đồng xét xử quyết định.
3. Giải pháp khắc phục bất cập về thay đổi địa vị tố tụng trong tố tụng dân sự:
Có thể thấy thông qua những điều chứng tôi đã phân tích như trên thì có một số giải pháp kiến nghị để có thể hoàn thiện các quy định của pháp luật không chỉ là việc cơ quan có thẩm quyền (
Như vậy để có thể hoàn thiện quy định của pháp luật như đã nêu trên thì cần phải thống nhất quan điểm là trong vụ án, khi nguyên đơn đã rút đơn khởi kiện thì vụ án nhất thiết phải đình chỉ. Đối với bị đơn có yêu cầu phản tố, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập, do họ đã làm thủ tục phản tố, thủ tục yêu cầu độc lập giống như đối với thủ tục khởi kiện của nguyên đơn, đã nộp tạm ứng án phí, tòa án có quyền tách yêu cầu phản tố, yêu cầu độc lập giải quyết thành vụ án khác theo cơ sở pháp lý được quy định tại Bộ luật tố tụng dân sự 2015 về nhập hoặc tách vụ án: “…Tòa án có thể tách một vụ án có các yêu cầu khác nhau thành hai hoặc nhiều vụ án nếu việc tách và việc giải quyết các vụ án bảo đảm đúng pháp luật…”. Quy định về đình chỉ yêu cầu của đương sự, thay đổi địa vị tố tụng trong vụ án dân sự là điểm mới quan trọng của Bộ luật tố tụng dân sự 2015 và đã phát huy giá trị trong thực tiễn áp dụng. Tuy nhiên, qua áp dụng thực tiễn, việc áp dụng các quy định liên quan đến vấn đề này đã nảy sinh một vài vướng mắc. Theo đó, với các ý kiến trình bày ở trên, chúng tôi hy vọng sẽ góp phần hoàn thiện quy định của Bộ luật tố tụng dân sự 2015 về đình chỉ yêu cầu của đương sự, thay đổi địa vị tố tụng trong vụ án dân sự.
Các văn bản pháp luật có liên quan đến bài viết:
Bộ luật tố tụng dân sự 2015