Hiện nay, sống chung như vợ chồng đang được diễn ra rất phổ biến. Vậy sống chung như vợ chồng có được hưởng thừa kế không? Mời bạn đọc tham khảo bài viết dưới đây:
Mục lục bài viết
1. Chung sống như vợ chồng là gì?
Hiện nay, chung sống như vợ chồng diễn ra rất phổ biến, việc này được hiểu là việc nam, nữ tổ chức cuộc sống chung và coi nhau là vợ chồng và không có đăng ký kết hôn theo đúng thủ tục của pháp luật (căn cứ theo quy định tại Khoản 7 Điều 3 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014).
Chung sống như vợ chồng được thể hiện dưới nhiều cách như: sống chung không đăng ký kết hôn, sống thử, sống chung giữa hai người đồng tính, giữa những người chuyển giới với nhau hoặc với người khác giới…
Khái niệm chung sống như vợ chồng cũng được giải thích cụ thể, rõ ràng tại mục 3.1 Thông tư liên tịch số
– Tổ chức sinh hoạt chung trong một ngôi nhà như một gia đình.
– Có con chung.
– Thông qua xác nhận của hàng xóm và xã hội xung quanh coi như vợ chồng.
– Có tài sản chung đã được cơ quan, đoàn thể giáo dục mà vẫn tiếp tục duy trì quan hệ đó.
2. Quyền thừa kế theo quy định pháp luật:
Căn cứ theo quy định tại 609 Bộ luật Dân sự 2015, thừa kế được hiểu như sau:
Thừa kế là việc chuyển dịch tài sản của người đã chết cho người còn sống, tài sản để lại được gọi là di sản. Bất cứ ai có tài sản đều có quyền lập di chúc để định đoạt tài sản của mình, để lại tài sản của mình cho người thừa kế theo pháp luật; hưởng di sản theo di chúc hoặc theo pháp luật.
Mọi cá nhân đều bình đẳng về quyền để lại tài sản của mình cho người khác và quyền hưởng di sản theo di chúc hoặc theo pháp luật.
Người thừa kế không là cá nhân thì cũng có quyền hưởng di sản theo di chúc.
Theo quy định tại Bộ luật Dân sự, thừa kế được chia thành thừa kế theo pháp luật và thừa kế theo di chúc.
3. Sống chung như vợ chồng có được hưởng thừa kế không?
Như trên đã phân tích, thừa kế bao gồm thừa kế theo di chúc và thừa kế theo pháp luật.
Với trường hợp thừa kế theo di chúc:
Nếu như cá nhân người có tài sản để lại di chúc và cho người chung sống như vợ chông với mình được hưởng di sản thì nguyên tắc, người đó vẫn được hưởng phần di sản đó bình thường sau khi người để lại di sản mất đi.
Với trường hợp thừa kế theo pháp luật:
Nếu như người có tài sản mất đi không để lại di chúc hoặc có di chúc nhưng không hợp pháp thì sẽ tiến hành chia thừa kế theo pháp luật, tức là chia cho những người nằm trong hàng thừa kế.
Theo Điều 651 Bộ luật Dân sự 2015, những người thừa kế theo pháp luật của người để lại di sản thừa kế bao gồm:
– Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết.
– Hàng thừa kế thứ hai gồm: ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị ruột, em ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại.
– Hàng thừa kế thứ ba gồm: cụ nội, cụ ngoại của người chết; bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột; chắt ruột của người chết mà người chết là cụ nội, cụ ngoại.
Và về nguyên tắc, những người thừa kế cùng hàng sẽ được hưởng phần di sản bằng nhau.
Trường hợp không có ai ở hàng thừa kế trước hoặc những người đó đã mất thì những người ở hàng thừa kế sau mới được hưởng.
Do đó, vấn đề vợ, chồng nằm trong hàng thừa kế thứ nhất được hưởng di sản phải được pháp luật công nhận quan hệ hôn nhân hợp pháp, tức là phải thực hiện thủ tục đăng kí kết hôn đúng quy định. Chính vì vậy, những người nào không đăng kí kết hôn mà chỉ chung sống như vợ chồng thì không được công nhận để được hưởng thừa kế.
Tuy nhiên, có những trường hợp ngoại lệ được pháp luật công nhận như sau:
– Trong trường hợp quan hệ vợ chồng được xác lập trước ngày 03/01/1987, ngày Luật Hôn nhân và gia đình 1986 có hiệu lực mà chưa thực hiện đăng ký kết hôn thì được khuyến khích đăng ký kết hôn.
Nếu như có yêu cầu ly hôn thì được Tòa án thụ lý giải quyết theo quy định về ly hôn của Luật Hôn nhân và gia đình 2000.
Kể cả trong trường hợp sau đó có thực hiện đăng kí kết hôn thì quan hệ vợ chồng vẫn sẽ được công nhận tính từ thời điểm vợ chồng bắt đầu chung sống như vợ chồng, chứ không phải chỉ được công nhận tính từ ngày đăng kí kết hôn.
(quy định tại mục 1 Thông tư liên tịch số
– Nam và nữ chung sống với nhau như vợ chồng từ ngày 03/01/1987 đến ngày 01/01/2001, mà có đủ điều kiện kết hôn theo quy định của Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 có hiệu lực thì có nghĩa vụ đăng ký kết hôn trong thời hạn hai năm, kể từ ngày Luật này có hiệu lực cho đến ngày 01/01/2003.
– Từ ngày 01/01/2001 trở đi, trừ các trường hợp nêu trên, nam và nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn, khi đó pháp luật sẽ không công nhận là vợ chồng.
Trường hợp nếu có yêu cầu ly hôn thì Tòa án thụ lý và tuyên bố không công nhận quan hệ vợ chồng. Về con cái và tài sản có tranh chấp thì yêu cầu Tòa án áp dụng khoản 2 và khoản 3 Điều 17 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 để giải quyết.
Theo đó, trường hợp chung sống như vợ chồng không đăng kí kết hôn trước ngày 03/01/1987 thì vẫn được pháp luật công nhận hôn nhân. Do đó, vợ hoặc chồng trong trường hợp này vẫn được hưởng thừa kế theo đúng quy định về thừa kế.
Còn ngoài ra, các trường hợp chung sống như vợ chồng với nhau mà không có đăng kí kết hôn thì sẽ không được hưởng thừa kế di sản, trừ trường hợp di chúc để lại tài sản cho người kia. Tuy nhiên, con chung có quyền được hưởng di sản từ cha mẹ mình.
Có thể thấy, việc sống chung với nhau như vợ chồng mà không có đăng ký kết hôn sẽ đồng nghĩa với việc hôn nhân của họ không được pháp luật bảo vệ. Đồng thời sẽ không làm phát sinh quan hệ quyền và nghĩa vụ như vợ chồng bình thường.
Căn cứ tại Điều 14 Luật Hôn nhân và Gia đình 2014, quyền, nghĩa vụ đối với con, tài sản, nghĩa vụ và hợp đồng giữa các bên được giải quyết theo quy định tại Điều 15 và Điều 16 của Luật Hôn nhân và gia đình. Theo đó.
– Đối với quyền, nghĩa vụ giữa nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng và con được giải quyết theo quy định về quyền, nghĩa vụ của cha mẹ và con.
– Đối với quan hệ tài sản, nghĩa vụ và hợp đồng của nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn do các bên thỏa thuận giải quyết, trường hợp không có thỏa thuận thì giải quyết theo quy định pháp luật. Việc giải quyết quan hệ tài sản phải bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của người phụ nữ và con.
4. Những đối tượng nào không được quyền hưởng di sản thừa kế?
Căn cứ theo quy định tại Điều 621 Bộ luật dân sự năm 2015, những đối tượng sau đây sẽ không được quyền hưởng di sản:
– Đối tượng là người bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe hoặc về hành vi ngược đãi nghiêm trọng, hành hạ người để lại di sản, xâm phạm nghiêm trọng danh dự, nhân phẩm của người đó.
– Đối tượng vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ nuôi dưỡng người để lại di sản.
– Đối tượng nhằm hưởng một phần hoặc toàn bộ phần di sản mà người thừa kế đó có quyền hưởng có hành vi cố ý xâm phạm đến tính mạng người thừa kế.
– Đối tượng có hành vi lừa dối, cưỡng ép hoặc ngăn cản người để lại di sản trong việc lập di chúc.
– Thực hiện hành vi giả mạo di chúc, sửa chữa di chúc, hủy di chúc, che giấu di chúc nhằm hưởng một phần hoặc toàn bộ di sản trái với ý chí của người để lại di sản.
CÁC VĂN BẢN PHÁP LUẬT ĐƯỢC SỬ DỤNG TRONG BÀI VIẾT:
Thông tư liên tịch số 01/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP của toà án nhân dân tối cao, viện kiểm sát nhân dân tối cao, bộ tư pháp số 01/2001/ttlt-tandtc-vksndtc-btp ngày 3 tháng 1 năm 2001 hướng dẫn thi hành