BLTTHS năm 2003 quy định về nghĩa vụ của người bào chữa tại khoản 3 Điều 58 bộ luật này. Theo đó, người bào chữa có những nghĩa vụ sau.
BLTTHS năm 2003 quy định về nghĩa vụ của người bào chữa tại khoản 3 Điều 58 bộ luật này. Theo đó, người bào chữa có những nghĩa vụ sau:
– Thứ nhất, sử dụng mọi biện pháp do pháp luật quy định để làm sáng tỏ những tình tiết xác định người bị tạm giữ, bị can bị cáo vô tội, những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị can bị cáo.
Khi tham gia tố tụng hình sự với vai trò là người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo theo quy định của pháp luật, người bào chữa có trách nhiệm phải thực hiện chức năng của mình. Pháp luật quy định cho người bào chữa những quyền để giúp họ bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can bị cáo. Đồng thời, những quyền này cũng chính là những biện pháp mà pháp luật cho phép họ sử dụng, và người bào chữa có trách nhiệm sử dụng chúng để làm sáng tỏ những tình tiết có lợi cho người được bào chữa. Quy định này nhằm hạn chế tình trạng người bào chữa không có trách nhiệm với công việc cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo; người bào chữa qua loa, không đem lại sự trợ giúp đáng kể nào cho người được bào chữa. Người bào chữa phải ý thức được nghĩa vụ của mình do pháp luật quy định, chuyên tâm, tích cực tìm hiểu vụ án, phát hiện kịp thời những tình tiết có thể giúp người bị tạm giữ, bị can, bị cáo chứng minh sự vô tội hoặc giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho họ. Có như vậy, việc tham gia tố tụng của người bào chữa mới thực sự có ý nghĩa. Tùy theo mỗi giai đoạn tố tụng, khi thu thập được tài liệu, đồ vật liên quan đến vụ án, thì người bào chữa có trách nhiệm giao cho cơ quan điều tra, viện kiểm sát, tòa án. Việc giao nhận các tài liệu, đồ vật đó giữa người bào chữa và cơ quan tiến hành tố tụng phải được lập biên bản theo quy định tại Điều 95 của Bộ luật này.
– Thứ hai, giúp người người bị tạm giữ, bị can bị cáo về mặt pháp lý nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ.
Đây là nghĩa vụ đương nhiên của người bào chữa đối với người bị tạm giữ, bị can bị cáo. Người bào chữa được mời hoặc cử tham gia tố tụng với nhiệm vụ bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo. Vì vậy họ có nghĩa vụ phải trợ giúp người được bào chữa mọi mặt về các vấn đề pháp luật. Các vấn đề này có thể là người bào chữa giải thích cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo về các quyền của mình, quyền và nghĩa vụ của cơ quan tiến hành tố tụng, hoặc thực hiện các yêu cầu, nguyện vọng của người được bào chữa nhằm giúp họ cung cấp thêm những tình tiết có liên quan đến vụ án mà có lợi cho họ. Sự trợ giúp này của người bào chữa là rất cần thiết, bởi do điều kiện hoàn cảnh, cũng như yếu tố tâm lý người bị tạm giữ, bị can, bị cáo khó có thể tự mình bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp có hiệu quả.
– Thứ ba, không được từ chối bào chữa cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo mà mình đã đảm bảo nhận bào chữa, nếu không có lý do chính đáng.
Quy định này được hiểu là khi đã đảm nhận công việc bào chữa theo lời mời của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo hoặc người đại diện hợp pháp của họ, hoặc được cử theo yêu cầu của cơ quan tiến hành tố tụng thì người bào chữa không được từ chối bào chữa cho người bị tạm giữ, bị can bị cáo trừ khi có lý do chính đáng. Quy định này thể hiện sự ràng buộc trách nhiệm của người bào chữa đối với người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, góp phần bảo vệ quyền và lợi ích của họ. Khi đã đồng ý đảm nhận vai trò người bào chữa, họ sẽ có điều kiện tiếp xúc với vụ án ngay từ đầu, nắm được các tình tiết của vụ án. Do đó, nếu họ từ chối bào chữa cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo sẽ ảnh hưởng đến quyền lợi của những người này. Mặt khác, điều đó cũng có gây ra tác động tâm lý không tốt cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo như hoang mang, lo sợ khi không được bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp.
– Thứ tư, tôn trọng sự thật và pháp luật, không được mua chuộc, cưỡng ép hoặc xúi giục người khác khai báo gian dối, cung cấp tài liệu sai sự thật.
>>> Luật sư tư vấn pháp luật trực tuyến qua tổng đài: 1900.6568
Đặc trưng công việc bào chữa của người bào chữa chính là tìm mọi luận cứ, luận điểm để bảo vệ cho quyền lợi và lợi ích hợp pháp của người được bào chữa; giúp họ chứng minh vô tội hoặc giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho họ. Tuy nhiên, điều này không đồng nghĩa với việc người bào chữa có quyền làm sai lệch sự thật vụ án để bằng mọi giá để đạt được mục đích. Là người am hiểu pháp luật, người bào chữa càng phải luôn tôn trọng sự thật của vụ án và tôn trọng pháp luật. Họ chỉ có thể thực hiện chức năng bào chữa của mình, tìm những tình tiết có lợi cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo dựa trên sự thật vụ án. Hành vi mua chuộc, cưỡng ép để người khác khai báo gian dối, cung cấp tài liệu sai sự thật đi ngược lại với đạo đức nghề nghiệp, đạo đức xã hội cũng như vi phạm pháp luật tố tụng.
– Thứ năm, có mặt theo giấy triệu tập của Tòa án
Đây vừa là quyền vừa là nghĩa vụ của người bào chữa. Việc có mặt theo giấy triệu tập của Tòa án sẽ đảm bảo người bào chữa luôn theo sát vụ án, có sự trợ giúp kịp thời với người được bào chữa. Quy định này cũng phù hợp vơi tinh thần cải cách tư pháp, và những quy định khác của BLTTHS năm 2003: “bản án chỉ được căn cứ vào những chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa”. Nếu người bào chữa không có mặt tại phiên tòa thì sẽ rất thiệt thòi cho người được bào chữa. Có thể nói pháp luật quy định nghĩa vụ này của người bào chữa nhằm ràng buộc họ có trách nhiệm hơn với công việc bào chữa cho thân chủ của mình.
– Thứ sáu, không được tiết lộ bí mật điều tra mà mình biết được khi thực hiện việc bào chữa; không được sử dụng tài liệu đã ghi chép, sao chụp trong hồ sơ vụ án vào mục đích xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyề và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân
Pháp luật quy định người bào chữa không được tiết lộ bí mật điều tra mà mình biết được khi thực hiện việc bào chữa hoàn toàn phù hợp với những nguyên tắc đạo đức cần có của người bào chữa. Quy định này cũng bảo đảm bí mật quốc gia và những lợi ích chung của xã hội. Tuy vậy, đến nay chưa có quy định nào khác của BLTTHS năm 2003 hoặc văn bản hướng dẫn về vấn đề thế nào là bí mật điều tra. Người bào chữa nào làm trái pháp luật thì mức độ vi phạm thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị thu hồi giấy chứng nhận bào chữa, xử lý kỉ luật, xử phạt hành vi hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự, nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật.
Bạn có thể tham khảo thêm một số bài viết có liên quan khác của Dương Gia:
– Người bào chữa và quyền, nghĩa vụ của người bào chữa
– Việc tham gia tố tụng của người bào chữa tại giai đoạn xét xử
– Quyền và nghĩa vụ của người bào chữa
Mọi thắc mắc pháp lý cần tư vấn hoặc yêu cầu dịch vụ, quý khách hàng vui lòng liên hệ Tổng đài tư vấn pháp luật trực tuyến 1900.6568 hoặc gửi thư về địa chỉ email: lienhe@luatduonggia.vn.
——————————————————–
THAM KHẢO CÁC DỊCH VỤ CÓ LIÊN QUAN CỦA LUẬT DƯƠNG GIA:
– Tư vấn pháp luật trực tuyến qua điện thoại


Tư vấn pháp luật qua Zalo


