Xác định về chế độ tài sản của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân? Căn cứ phân chia tài sản của vợ, chồng khi ly hôn? Nguyên tắc giải quyết tài sản của vợ chồng khi ly hôn?
Có thể nói, gia đình là tế bào của xã hội, là nơi gắn kết của các mối quan hệ như cha mẹ và con, vợ và chồng cũng như các thành viên khác trong gia đình. Trước vai trò đặc biệt quan trọng và mang tính chất nền tảng của gia đình đối với xã hội và đất nước, Nhà nước ta luôn quan tâm và có quy định điều chỉnh về các mối quan hệ này, đặc biệt là quan hệ hôn nhân.Tuy nhiên, bên cạnh quy định về quyền kết hôn của công dân thì
Bởi trong thực tế, khi mối quan hệ hôn nhân có dấu hiệu rạn nứt và rơi vào tình trạng trầm trọng, không thể hàn gắn được thì ly hôn sẽ trở thành biện pháp cuối cùng. Do đó, việc Nhà nước thừa nhận chế định ly hôn trong pháp luật là thể hiện sự đảm bảo cũng như tôn trọng quyền tự do định đoạt của vợ chồng, giúp họ giải quyết những bế tắc, xung đột trong đời sống hôn nhân. Khi tiến hành ly hôn, một trong những vấn đề thường phát sinh tranh chấp lớn nhất bên cạnh vấn đề về giành quyền nuôi con của các cặp vợ chồng chính là việc phân chia tài sản.
Mục lục bài viết
1. Xác định về chế độ tài sản của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân:
Theo quy định tại Điều 32 Hiến pháp năm 2013, mọi công dân đều có quyền sở hữu đối với các tài sản hợp pháp của họ và các tài sản do vợ chồng tạo ra được công nhận là sở hữu chung hợp nhất có thể phân chia.
Và để cụ thể hóa điều này, tại Điều 33 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 đã xác định những tài sản được coi là của chung vợ chồng nếu như đáp ứng các điều kiện sau đây:
– Là tài sản do cả vợ và chồng cùng tạo ra được
– Những thu nhập vợ chồng có được từ công sức lao động, sản xuất kinh doanh hoặc chính là những hoa lợi, lợi tức thu được từ tài sản riêng của một trong các bên, thu nhập khác,…
– Các tài sản mà vợ và chồng có được thông qua việc được người khác tặng cho hoặc thừa kế (bao gồm cả các trường hợp có nguồn gốc vốn là tặng hoặc thừa kế riêng được thừa kế, tặng riêng nhưng vợ chồng đã cùng thỏa thuận cho vào khối tài sản chung).
– Quyền sử dụng đối với tài sản là bất động sản có được trong thời kỳ hôn nhân (Trừ trường hợp có căn cứ xác định quyền sử dụng đó là của cá nhân vợ hoặc chồng có được qua các giao dịch từ tài sản riêng của chính họ hoặc thông qua việc được tặng hay nhận thừa kế riêng).
Ngoài việc xác định tài sản của vợ chồng là tài sản chung dựa trên các căn cứ theo luật định như đã nêu ở trên thì giữa vợ và chồng còn có thể tự xác định tài sản chung thể hiện qua các thỏa thuận chia tài sản chung hoặc nhờ Tòa án giải quyết trong thời kỳ hôn nhân (Theo quy định tại Điều 38 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014). Những thỏa thuận của vợ chồng về vấn đề này được thể hiện qua các văn bản có công chứng hoặc theo quyết định của Tòa án. Tuy nhiên, việc xác định tài sản chung theo thỏa thuận của vợ và chồng không được ghi nhận nếu thuộc các trường hợp sau:
– Việc phân chia tài sản đó làm ảnh hưởng đến lợi ích của gia đình và của những người con chưa thành niên, mất năng lực hành vi hay khả năng lao động và không có tài sản nuôi mình.
– Vợ và chồng thỏa thuận phân chia tài sản chung nhằm không thực hiện các nghĩa vụ theo pháp luật như cấp dưỡng, nghĩa vụ thanh toán khi phá sản, bồi thường thiệt hại, trả nợ, thuế, ….
Lưu ý:
Trong thời kỳ hôn nhân của vợ chồng, ngoài những tài sản chung thì vợ và chồng đều có những tài sản được ghi nhận là tài sản riêng của mỗi người nếu thuộc các trường hợp sau:
– Các tài sản của vợ, chồng đã hình thành từ thời điểm trước khi kết hôn hoặc tài sản chung trong hôn nhân nhưng đã có thỏa thuận chia của vợ chồng.
– Vợ, chồng nhận tài sản qua thừa kế riêng, tặng cho riêng từ người khác
– Những tài sản có nguồn gốc phát sinh từ các tài sản của riêng vợ hoặc chồng nhận được qua những hình thức trên cũng được xác định là tài sản riêng của họ.
2. Căn cứ phân chia tài sản của vợ, chồng khi ly hôn:
Theo quy định của pháp luật, giữa vợ và chồng tồn tại mối quan hệ bình đẳng với nhau cả về quyền cũng như nghĩa vụ đặc biệt là quyền đối với các tài sản chung của hai người không kể là lao động có thu nhập hay chỉ là lao động nội trợ trong gia đình. Chính vì vậy, khi ly hôn, tài sản của vợ chồng được phân chia như sau:
– Trường hợp 1: Nếu trong thời gian chung sống hai vợ chồng không có thỏa thuận phân chia tài sản thì khi ly hôn, các bên có thể tự thỏa thuận chia tài sản. Trong trường hợp các bên không thỏa thuận hoặc không thỏa thuận được thì có thể yêu cầu Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật.
– Trường hợp 2: Nếu trong trường hợp vợ và chồng đã có thỏa thuận chia tài sản trong thời gian chung sống thì khi ly hôn vấn đề tài sản sẽ được chia theo thỏa thuận này. Tuy nhiên, nếu có căn cứ xác định thỏa thuận này không rõ ràng, đầy đủ thì Tòa án có thể chia theo quy định của pháp luật.
Căn cứ để chia tài sản chung được Tòa án áp dụng khi giải quyết vấn đề tài sản khi vợ, chồng ly hôn được quy định tại Điều 59 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014. Theo đó, tài sản sẽ được chia đôi nhưng có xem xét đến các yếu tố như sau:
– Điều kiện, hoàn cảnh của gia đình cũng như của người vợ và người chồng.
– Công sức của người vợ và người chồng trong việc tạo lập nên tài sản đó cũng như việc duy trì, phát triển khối tài sản này.
– Đối với tài sản là công cụ trong sản xuất, kinh doanh hoặc gắn với nghề nghiệp của một trong các bên thì việc chia tài sản phải đảm bảo điều kiện để các bên tiếp tục lao động.
– Ngoài các yếu tố trên, trong quá trình xem xét để chia tài sản chung, Tòa án còn phải căn cứ vào việc có hay không yếu tố lỗi của vợ hoặc chồng trong vi phạm các nghĩa vụ của vơ, chồng.
Lưu ý:
– Các tài sản chung của vợ và chồng khi đem chia sẽ được Tòa án xem xét là chia bằng hiện vật. Chỉ khi nào việc chia bằng hiện vật không thực hiện được mới dựa trên giá trị của tài sản để chia. Khi chia tài sản theo giá trị thì bên vợ hoặc chồng nhận được phần lớn hơn phần được hưởng phải thanh toán lại phần vượt quá cho bên còn lại theo quy định.
– Trong trường hợp giữa tài sản riêng của mỗi người và tài sản chung đã bị hợp nhất lại thì khi vợ hoặc chồng có yêu cầu sẽ được thanh toán phần giá trị tài sản của họ.
– Mặc dù về nguyên tắc, tài sản chung của vợ chồng chỉ khi ly hôn chỉ phân chia cho vợ và chồng nhưng vẫn phải đảm bảo được quyền lợi cho những người vợ hoặc con chưa thành niên, đã thành niên nhưng mất năng lực hành vi dân sự, không có khả năng lao động va không có tài sản.
3. Việc phân chia tài sản chung đối với một số tài sản đặc thù của vợ chồng khi ly hôn:
– Đối với tài sản chung của vợ chồng là quyền sử dụng đất thì khi ly hôn, việc phân chia tài sản thực hiện dựa trên các căn cứ quy định tại Điều 62 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 như sau:
+ Riêng trong trường tài sản là đất nông nghiệp (Ví dụ: Trồng cây hàng năm, nuôi trồng thủy sản) thì việc phân chia phải dựa trên nhu cầu và điều kiện trực tiếp sử dụng của các bên. Trong trường hợp các bên không tự thỏa thuận được thì Tòa sẽ giải quyết theo quy định.
+ Cần lưu ý với trường hợp vợ, chồng sống cùng với gia đình nhưng họ không có quyền sử dụng đất chung thì khi ly hôn quyền lợi của bên không còn chung sống phải được xem xét trên cơ sở công sức đóng góp của họ đối với tài sản đó.
– Đối với trường hợp vợ và chồng cùng sống với gia đình thì vấn đề chia tài sản khi ly hôn được thực hiện theo quy định tại Điều 61 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014, cụ thể như sau:
+ Trong trường hợp tài sản của họ ở trong khối tài sản của gia đình có thể phân chia được thì việc chia tài sản ly hôn từ phần tài sản của vợ, chồng trong khối tài sản đó sẽ được đem chia theo quy định.
+ Riêng trong trường hợp tài sản của vợ chồng trong khối tài sản của gia đình không thể xác định được thì việc phân chia tài sản phải dựa vào công sức đóng góp của vợ chồng vào việc tạo lập, duy trì, phát triển khối tài sản chung cũng như vào đời sống chung của gia đình. Việc chia một phần trong khối tài sản chung do vợ chồng thỏa thuận với gia đình; nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết.
4. Nguyên tắc giải quyết tài sản của vợ chồng khi ly hôn:
Tóm tắt câu hỏi:
Luật sư cho tôi hỏi, theo quy định pháp luật việc giải quyết tài sản của vợ chồng khi ly hôn như thế nào?
Luật sư tư vấn:
Theo quy định Điều 33 Luật hôn nhân và gia đình 2014: Tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng và thu nhập hợp pháp khác trong thời kỳ hôn nhân, trừ trường hợp được quy định tại khoản 1 Điều 40 của Luật này; tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho chung và tài sản khác mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung.
Quyền sử dụng đất mà vợ, chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng, trừ trường hợp vợ hoặc chồng được thừa kế riêng, được tặng cho riêng hoặc có được thông qua giao dịch bằng tài sản riêng.
Căn cứ Điều 7 Thông tư liên tịch 01/2016/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP: Khi vợ chồng ly hôn có quyền tự thỏa thuận với nhau về toàn bộ các vấn đề, trong đó có cả việc phân chia tài sản. Trường hợp vợ chồng không thỏa thuận được mà có yêu cầu thì Tòa án phải xem xét, quyết định việc áp dụng chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận hay theo luật định, tùy từng trường hợp cụ thể mà Tòa án xử lý như sau:
– Trường hợp không có
– Trường hợp có văn bản thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng và văn bản này không bị Tòa án tuyên bố vô hiệu toàn bộ thì áp dụng các nội dung của văn bản thỏa thuận để chia tài sản của vợ chồng khi ly hôn. Đối với những vấn đề không được vợ chồng thỏa thuận hoặc thỏa thuận không rõ ràng hoặc bị vô hiệu thì áp dụng các quy định tương ứng tại các khoản 2, 3, 4, 5 Điều 59 và các điều 60, 61, 62, 63 và 64 của Luật hôn nhân và gia đình để chia tài sản của vợ chồng khi ly hôn.
* Khi giải quyết ly hôn nếu có yêu cầu tuyên bố thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng bị vô hiệu thì Tòa án xem xét, giải quyết đồng thời với yêu cầu chia tài sản của vợ chồng khi ly hôn.
* Khi chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn, Tòa án phải xác định vợ, chồng có quyền, nghĩa vụ về tài sản với người thứ ba hay không để đưa người thứ ba vào tham gia tố tụng với tư cách người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Trường hợp vợ, chồng có quyền, nghĩa vụ về tài sản với người thứ ba mà họ có yêu cầu giải quyết thì Tòa án phải giải quyết khi chia tài sản chung của vợ chồng. Trường hợp vợ chồng có nghĩa vụ với người thứ ba mà người thứ ba không yêu cầu giải quyết thì Tòa án hướng dẫn họ để giải quyết bằng vụ án khác.
* Trường hợp áp dụng chế độ tài sản của vợ chồng theo luật định để chia tài sản của vợ chồng khi ly hôn thì tài sản chung của vợ chồng về nguyên tắc được chia đôi nhưng có tính đến các yếu tố sau đây để xác định tỷ lệ tài sản mà vợ chồng được chia:
– “Hoàn cảnh của gia đình và của vợ, chồng” là tình trạng về năng lực pháp luật, năng lực hành vi, sức khỏe, tài sản, khả năng lao động tạo ra thu nhập sau khi ly hôn của vợ, chồng cũng như của các thành viên khác trong gia đình mà vợ chồng có quyền, nghĩa vụ về nhân thân và tài sản theo quy định của Luật hôn nhân và gia đình. Bên gặp khó khăn hơn sau khi ly hôn được chia phần tài sản nhiều hơn so với bên kia hoặc được ưu tiên nhận loại tài sản để bảo đảm duy trì, ổn định cuộc sống của họ nhưng phải phù hợp với hoàn cảnh thực tế của gia đình và của vợ, chồng.
– “Công sức đóng góp của vợ, chồng vào việc tạo lập, duy trì và phát triển khối tài sản chung” là sự đóng góp về tài sản riêng, thu nhập, công việc gia đình và lao động của vợ, chồng trong việc tạo lập, duy trì và phát triển khối tài sản chung. Người vợ hoặc chồng ở nhà chăm sóc con, gia đình mà không đi làm được tính là lao động có thu nhập tương đương với thu nhập của chồng hoặc vợ đi làm. Bên có công sức đóng góp nhiều hơn sẽ được chia nhiều hơn.
– “Bảo vệ lợi ích chính đáng của mỗi bên trong sản xuất, kinh doanh và nghề nghiệp để các bên có điều kiện tiếp tục lao động tạo thu nhập” là việc chia tài sản chung của vợ chồng phải bảo đảm cho vợ, chồng đang hoạt động nghề nghiệp được tiếp tục hành nghề; cho vợ, chồng đang hoạt động sản xuất, kinh doanh được tiếp tục được sản xuất, kinh doanh để tạo thu nhập và phải thanh toán cho bên kia phần giá trị tài sản chênh lệch. Việc bảo vệ lợi ích chính đáng của mỗi bên trong sản xuất, kinh doanh và hoạt động nghề nghiệp không được ảnh hưởng đến điều kiện sống tối thiểu của vợ, chồng và con chưa thành niên, con đã thành niên nhưng mất năng lực hành vi dân sự.
Ví dụ: Vợ chồng có tài sản chung là một chiếc ô tô người chồng đang chạy xe taxi trị giá 400 triệu đồng và một cửa hàng tạp hóa người vợ đang kinh doanh trị giá 200 triệu đồng. Khi giải quyết ly hôn và chia tài sản chung, Tòa án phải xem xét giao cửa hàng tạp hóa cho người vợ, giao xe ô tô cho người chồng để họ tiếp tục kinh doanh, tạo thu nhập. Người chồng nhận được phần giá trị tài sản lớn hơn phải thanh toán cho người vợ phần giá trị là 100 triệu đồng.
– “Lỗi của mỗi bên trong vi phạm quyền, nghĩa vụ của vợ chồng” là lỗi của vợ hoặc chồng vi phạm quyền, nghĩa vụ về nhân thân, tài sản của vợ chồng dẫn đến ly hôn.
Ví dụ: Trường hợp người chồng có hành vi bạo lực gia đình, không chung thủy hoặc phá tán tài sản thì khi giải quyết ly hôn Tòa án phải xem xét yếu tố lỗi của người chồng khi chia tài sản chung của vợ chồng để đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp của vợ và con chưa thành niên.
* Giá trị tài sản chung của vợ chồng, tài sản riêng của vợ, chồng được xác định theo giá thị trường tại thời điểm giải quyết sơ thẩm vụ việc.
* Khi giải quyết chia tài sản khi ly hôn, Tòa án phải xem xét để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của vợ, con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình.
Ví dụ: Khi chia nhà ở là tài sản chung và là chỗ ở duy nhất của vợ chồng, trong trường hợp không chia được bằng hiện vật thì Tòa án xem xét và quyết định cho người vợ hoặc chồng trực tiếp nuôi con chưa thành niên, con bị hạn chế hoặc mất năng lực hành vi dân sự nhận hiện vật và thanh toán giá trị tương ứng với phần tài sản được chia cho người chồng hoặc vợ nếu người vợ hoặc chồng có yêu cầu.