Hệ thống pháp luật hình sự có nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền quốc gia, an ninh của đất nước, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, quyền con người, quyền công dân. Pháp luật hình sự cần mở rộng các loại nguồn để quá trình tố tụng hình sự được diễn ra thuận lợi, tránh bỏ lọt tội phạm. Vậy nguồn của luật hình sự là gì?
Mục lục bài viết
1. Nguồn của luật hình sự là gì?
Khái niệm nguồn của pháp luật hình sự có thể được hiểu theo các nghĩa khác nhau. Nguồn của pháp luật hình sự có thể được hiểu theo nghĩa rộng và nghĩa hẹp hoặc theo nghĩa nguồn trực tiếp và nguồn gián tiếp.
Giả sử hiểu nguồn của pháp luật hình sự là các văn bản quy phạm pháp luật có nội dung quy định về tội phạm, về hình phạt. Trong đó, quy định về tội phạm được hiểu là sự mô tả hành vi bị coi là tội phạm và đặt tội danh cho hành vi đó. Cách hiểu này tương đương với cách hiểu về nguồn của pháp luật hình sự theo nghĩa hẹp cũng như với cách hiểu về nguồn trực tiếp của pháp luật hình sự.
Theo cách hiểu này thì những văn bản quy phạm pháp luật có tính giải thích, hướng dẫn hoặc có tính chất là căn cứ được chỉ dẫn đến đều không phải là nguồn của pháp luật hình sự.
Chẳng hạn như: Các thông tư liên tịch hay các nghị quyết của Hội đồng thẩm phán
Như vậy, xét về nội dung thì nguồn của pháp luật hình sự phải là văn bản quy phạm pháp luật có các quy phạm pháp luật hình sự – quy phạm quy định về tội phạm và hình phạt. Xét về hình thức thì không phải tất cả các loại (hình thức) văn bản quy phạm pháp luật đều có thể là nguồn của pháp luật hình sự.
Do tính chất nghiêm khắc đặc biệt của chế tài hình sự nên nguồn của pháp luật hình sự, về nguyên tắc chỉ có thể là văn bản quy phạm pháp luật do cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất ban hành. Chỉ văn bản luật (bộ luật hoặc luật) mới có thể là nguồn của ngành luật hình sự. Các văn bản dưới luật không thể là nguồn của ngành luật hình sự.
Bộ luật hình sự là luật mà trong đó tập hợp đầy đủ hoặc tương đối đầy đủ các quy định về tội phạm và hình phạt. Hay nói một cách khác, đây là luật mà trong đó có tất cả hoặc hầu hết các quy phạm pháp luật hình sự. Khác với bộ luật hình sự, mỗi một luật hình sự chỉ có một số quy phạm pháp luật hình sự nhất định. Mỗi luật hình sự có thể giữ vai trò bổ sung, hoàn thiện cho bộ luật hình sự trong trường hợp có bộ luật hình sự. Còn trong trường hợp không có bộ luật hình sự thì mỗi một luật hình sự là một bộ phận và cùng với các luật hình sự khác tập hợp thành nguồn của ngành luật hình sự.
Các luật hình sự theo nghĩa hẹp được hiểu là các luật mà trong đó chỉ có các quy định về tội phạm, về hình phạt thuộc vấn đề hoặc lĩnh vực cụ thể nhất định. Theo nghĩa rộng thì các luật hình sự còn gồm các luật thuộc ngành luật khác mà trong đó có điều luật xác định tội phạm và quy định hình phạt. Các luật này có nội dung là điều chỉnh các quan hệ xã hội khác nhau cũng như trực tiếp xác định những hành vi vi phạm sự điều chỉnh này. Trong trường hợp nhất định mà luật quy định đó là tội phạm, luật hình sự cũng trực tiếp quy định hình phạt có thể áp dụng cho các tội phạm này.
Tóm lại, nguồn của ngành luật hình sự có thể là bộ luật hình sự, các luật hình sự và các luật có quy phạm pháp luật hình sự. Nhiều quốc gia trên thế giới xây dựng ngành luật hình sự theo hướng có Bộ luật Hình sự và các luật có quy phạm pháp luật hình sự. Trong đó, Bộ luật Hình sự quy định những vấn đề chung về tội phạm và hình phạt cũng như quy định những tội danh thông thường. Ngoài ra, hệ thống pháp luật Hình sự còn có các luật có quy phạm pháp luật hình sự quy định tội danh thuộc những lĩnh vực riêng biệt khác.
Thuộc các quốc gia xây dựng ngành luật hình sự theo hướng này, ví dụ điển hình có thể kể đến Cộng hòa liên bang Đức. Theo các nhà khoa học của Cộng hòa liên bang Đức, phạm vi của luật hình sự vượt ra ngoài Bộ luật Hình sự; có số lượng lớn các luật thuộc tất cả các lĩnh vực của pháp luật chứa đựng các quy phạm pháp luật quy định hành vi bị đe dọa bị xử lí bằng hình phạt. Người ta gọi tập hợp các quy phạm pháp luật hình sự nằm ngoài Bộ luật Hình sự là Pháp luật hình sự phụ (Nebenstrafrecht).
Như vậy, một khái niệm ít quen thuộc được phát sinh từ đây – khái niệm “Pháp luật hình sự phụ”. Pháp luật hình sự phụ bao gồm tất cả các quy phạm pháp luật hình sự không được quy định trong Bộ luật Hình sự mà được quy định trong các luật khác. Trong số các luật này có một số luật như Luật về công nghệ gen; Bộ luật về lương thực, thực phẩm; Luật về an ninh dữ liệu từ các vệ tinh; v .v.. Các luật này có nội dung chính là điều chỉnh các vấn đề thuộc lĩnh vực chuyên biệt nhưng trong đó có một hoặc một số điều luật xác định những hành vi bị coi là vi phạm và tội phạm cũng như quy định các biện pháp xử lí kèm theo, trong đó có hình phạt.
Ví dụ như: Trong Luật về công nghệ gen, Điều 38 quy định về xử phạt hành chính và Điều 39 quy định trách nhiệm hình sự của các hành vi bị coi là tội phạm hoặc trong Bộ luật về lương thực, thực phẩm có hai điều luật là Điều 58 và Điều 59 quy định các hành vi bị coi là tội phạm v. v.. Những điều luật quy định về tội phạm cũng như về vi phạm hành chính trong các luật chuyên biệt này là một bộ phận của các luật chuyên biệt nhưng lại có ý nghĩa góp phần đảm bảo cho các luật chuyên biệt được tuân thủ trong thực tế.
Thế nhưng, quan niệm nguồn của pháp luật hình sự theo nghĩa hẹp chỉ là Bộ luật Hình sự như trình bày ở trên là quan niệm không còn phù hợp với xu thế và điều kiện hiện nay. Bộ luật Hình sự là sản phẩm cần thiết và nhu cầu tất yếu của việc pháp điển hóa để tiến hành quá trình phát triển công tác xây dựng pháp luật. Ta có thể thấy, pháp điển hóa để tạo cho ngành luật hình sự một Bộ luật Hình sự nhưng không phải để bó gọn trong khuôn khổ ngành luật này, trong một văn bản quy phạm pháp luật. Mà xét thấy, về mặt lí luận, mục đích của việc xây dựng Bộ luật Hình sự không phải để thay thế và loại trừ tất cả các luật và nếu mục đích đó có được đặt ra thì Bộ luật Hình sự cũng không thể thực hiện được mục đích đã được đặt ra đó. Điều này đã lí giải tại sao các quốc gia đều đã khẳng định không coi Bộ luật Hình sự là văn bản quy phạm pháp luật hình sự duy nhất.
Khi thực hiện công tác pháp điển hóa để có sản phẩm là Bộ luật Hình sự thì yêu cầu đã được đặt ra là phải đảm bảo cho bộ luật có tính ổn định tương đối. Trong khi đó vẫn phải đảm bảo tính phù hợp cũng như tính toàn diện của ngành luật hình sự. Ngành luật hình sự vẫn phải luôn luôn có sự thay đổi kịp thời, đáp ứng yêu cầu chống và phòng ngừa tội phạm trước sự vận động song hành của tội phạm đi liền với sự phát triển kinh tế – văn hóa – xã hội bên cạnh tiến trình phát triển và hội nhập kinh tế quốc tế.
Như chúng ta đều biết, phát triển kinh tế – xã hội cũng như hội nhập quốc tế luôn có mặt trái của nó là khả năng phát sinh những hiện tượng tiêu cực cho xã hội từ vi phạm đến tội phạm. Theo đó, trong tiến trình phát triển và hội nhập quốc tế, nhiều lĩnh vực kinh tế – xã hội vẫn sẽ tiếp tục phát triển hoặc sẽ hình thành và phát triển. Song hành với nó sẽ là sự phát sinh, phát triển những dạng hành vi phạm tội mới. Điều này đòi hỏi phải được phản ánh kịp thời trong ngành luật hình sự để đảm bảo cho ngành luật này có tính phù hợp và tính toàn diện. Như vậy, cần tiếp tục hoàn thiện và nâng cao công tác mở rộng nguồn pháp luật hình sự.
Nguồn của luật hình sự tiếng anh là “Sources of criminal law”‘.
2. Các loại nguồn của pháp luật hình sự Việt Nam:
Ở Việt Nam, nguồn của ngành luật hình sự được thể hiện như sau: Trước năm 1986 – Thời điểm trước khi Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1985 có hiệu lực, ngành luật hình sự Việt Nam không có cả bộ luật hình sự lẫn luật hình sự. Văn bản quy phạm pháp luật được coi là nguồn của ngành luật hình sự trong giai đoạn này chỉ bao gồm những văn bản dưới luật, trong đó chủ yếu là các pháp lệnh. Trong giai đoạn này, các pháp lệnh được áp dụng là Pháp lệnh trừng trị các tội phản cách mạng (năm 1967), Pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài sản XHCN và Pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài sản riêng của công dân (năm 1970), Pháp lệnh trừng trị tội hối lộ (năm 1981), Pháp lệnh trừng trị các tội đầu cơ, buôn lậu, làm hàng giả, kinh doanh trái phép (năm 1982) v.v.. Văn bản quy phạm pháp luật quy định được nhiều nhóm tội phạm nhất trong giai đoạn này là Sắc luật số 03 năm 1976. Trong đó, các nhóm tội phạm được quy định một cách đơn giản gồm: Các tội phản cách mạng, các tội xâm phạm tài sản công cộng, các tội xâm phạm thân thể, nhân phẩm, sức khỏe, tài sản riêng của công dân, các tội kinh tế, các tội chức vụ, hối lộ và các tội xâm phạm trật tự, an toàn công cộng. Ngoài các pháp lệnh và sắc luật kể trên thông tư cũng được coi là nguồn của ngành luật hình sự.
3. Vai trò của các nguồn pháp luật hình sự:
Để đảm bảo tính ổn định của Bộ luật Hình sự và tính phù hợp, tính toàn diện của ngành luật hình sự chúng ta cần chấp nhận quan niệm mới về nguồn của pháp luật hình sự: Nguồn của pháp luật hình sự có “hạt nhân” là Bộ luật Hình sự và xung quanh “hạt nhân” này là hệ thống các luật thuộc tất cả các lĩnh vực mà ở đó có thể phát sinh các hành vi nguy hiểm cho xã hội ở mức độ có thể bị coi là tội phạm. Quan niệm này không trái với quan điểm pháp điển hóa cũng như hoàn toàn phù hợp với nguyên tắc “không có luật thì không có tội”; Bộ luật Hình sự hay luật hình sự hay luật có quy phạm pháp luật hình sự là cùng loại văn bản quy phạm pháp luật, có cùng giá trị pháp lí. Chúng ta đã dùng một văn bản luật để sửa đổi, bổ sung Bộ luật Hình sự như Luật số 37/2009/QH12 ngày 19/06/2009. Điều này xét cho cùng cũng có nghĩa Luật số 37 là nguồn của ngành luật hình sự và trong văn bản luật này đã có các điều luật quy định về tội phạm và hình phạt.(15) Do vậy, việc mở rộng phạm vi cho phép các luật hoặc bộ luật khác cũng có thể có những điều luật về tội phạm và hình phạt bên cạnh các điều luật quy định về xử phạt hành chính là điều hoàn toàn hợp lí. Khi cho phép như vậy sẽ có nhiều điểm lợi như sau:
– Đảm bảo tính ổn định của Bộ luật Hình sự: Bộ luật Hình sự sẽ chỉ phải sửa đổi, bổ sung khi cần thay đổi quy định chung về tội phạm và hình phạt cũng như quy định về các tội phạm cụ thể có tính truyền thống và ổn định mà điều này nói chung ít xảy ra, không thể thường xuyên như việc phải bổ sung hay sửa đổi quy định về các tội phạm cụ thể phát sinh cùng với tiến trình phát triển và hội nhập quốc tế.
– Đảm bảo tính phù hợp, tính toàn diện của ngành luật hình sự: Trong khi việc sửa đổi, bổ sung tội danh hay khung hình phạt trong Bộ luật Hình sự không thể thường xuyên và thường chậm vì nhiều lí do khác nhau (kể cả lí do phức tạp về mặt kĩ thuật) thì việc sửa đổi, bổ sung một số điều trong một luật hay việc ban hành một luật mới là việc làm ít phức tạp hơn và có thể cùng lúc hoặc liên tiếp sửa đổi, bổ sung nhiều luật khác nhau. Do vậy, chúng ta có thể nhanh chóng sửa đổi, bổ sung một cách kịp thời các quy phạm pháp luật hình sự, tránh được tình trạng thực tiễn đấu tranh chống tội phạm phải chờ đợi việc sửa đổi, bổ sung Bộ luật Hình sự.
– Đảm bảo tính đồng bộ của hệ thống pháp luật: Khi nhu cầu phát triển của một lĩnh vực kinh tế – xã hội nào đó đòi hỏi phải có một luật hay cần sửa đổi, bổ sung một luật đã có chúng ta đồng thời thể hiện ba nội dung khác nhau nhưng thống nhất với nhau trong cùng một luật. Trong cùng một luật có cả ba loại quy phạm pháp luật. Đó là:
+ Các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội thuộc từng lĩnh vực kinh tế – xã hội như lĩnh vực tài chính, tiền tệ, lĩnh vực chứng khoán, lĩnh vực đất đai, lĩnh vực công nghệ thông tin, v.v..;
+ Các quy phạm pháp luật về vi phạm hành chính
+ Các quy phạm pháp luật hình sự.
Ba nhóm nội dung trên, khi được thể hiện trong cùng một luật sẽ có tính thống nhất cao. Quy phạm về vi phạm hành chính và quy phạm pháp luật hình sự được xây dựng dựa trên cơ sở các quy phạm pháp luật điều chỉnh. Đồng thời các quy phạm về vi phạm hành chính và quy phạm pháp luật hình sự với tính chất là các quy phạm bảo vệ có mục đích đảm bảo tính hiệu lực của các quy phạm pháp luật điều chỉnh.
Giữa quy phạm về vi phạm hành chính và quy phạm pháp luật hình sự cũng có mối quan hệ rất gắn bó với nhau vì đều quy định về các hành vi vi phạm quy phạm điều chỉnh nhưng ở các mức độ khác nhau – mức độ vi phạm và mức độ tội phạm. Việc thể hiện cả ba loại quy phạm này trong một luật không chỉ bảo đảm tính thống nhất mà còn đảm bảo chất lượng của các quy phạm. Hiện nay, nhiều văn bản luật đã có các quy phạm về vi phạm hành chính bên cạnh các quy phạm pháp luật điều chỉnh nhưng không có quy phạm pháp luật hình sự kèm theo nên giữa các quy phạm về vi phạm hành chính này với các quy phạm pháp luật hình sự trong Bộ luật Hình sự có thể có sự không thống nhất với nhau.
Giữa quy phạm về vi phạm hành chính được ban hành sau có thể mâu thuẫn với quy phạm pháp luật hình sự đã có trước đó; hoặc nhiều quy phạm về vi phạm hành chính không được bổ sung các quy phạm pháp luật hình sự kèm theo cho trường hợp vi phạm ở mức độ tội phạm. Tất cả những hạn chế này sẽ được khắc phục để đảm bảo tính đồng bộ và tính hiệu quả khi chúng ta quan niệm nguồn của pháp luật hình sự không chỉ là Bộ luật Hình sự mà còn có thể là các luật khác.
– Đảm bảo điều kiện cho việc pháp điển hóa: Pháp điển hóa là một quá trình; các quy phạm pháp luật được pháp điển hóa khi đã được kiểm nghiệm. Việc xây dựng các quy phạm pháp luật hình sự trong các luật là bước chuẩn bị cho việc hệ thống hóa và tiếp theo là pháp điển hóa sau này khi có đủ điều kiện. Như vậy, giữa pháp điển hóa và mở rộng phạm vi nguồn của pháp luật hình sự không mâu thuẫn mà hoàn toàn thống nhất với nhau. Vì quan niệm nguồn của pháp luật hình sự chỉ có thể là Bộ luật Hình sự nên trong thời gian vừa qua, chúng ta đã buộc phải đi theo quy trình “tắt”, quy trình “ngược” khi quy định một số nhóm tội phạm mới.
Đối với các nhóm tội phạm này chúng ta đã không xây dựng được ngay hệ thống các quy phạm hoàn chỉnh trong Bộ luật Hình sự mà chỉ xây dựng được một số điều cho mỗi nhóm tội phạm và các điều luật này đã không đáp ứng được yêu cầu do quá khái quát, chưa cụ thể, rõ ràng. Cho nên, ngay sau đó, chúng ta đã phải sửa đổi, bổ sung theo hướng tách tội, bổ sung tội hoặc sửa đổi quy định đã có. Ví dụ: Nhóm tội phạm về ma túy trước đây, nhóm tội phạm về môi trường hoặc nhóm tội phạm về vi tính hiện nay.
Các văn bản pháp luật có liên quan đến bài viết:
–