Phụ huynh hiện nay có nhu cầu cho con tham gia nhiều môn thể thao nâng cao sức khỏe, trong đó có bơi lội. Thực tế có nhiều vụ đuối nước thương tâm đã xảy ra. Trong trường hợp đó, nghĩa vụ bồi thường khi trẻ tử vong trong bể bơi dịch vụ được pháp luật quy định như thế nào?
Mục lục bài viết
1. Nghĩa vụ bồi thường khi trẻ tử vong trong bể bơi dịch vụ:
Theo quy định của pháp luật hiện nay, ngành nghề kinh doanh hoạt động thể thao của các doanh nghiệp thể thao và câu lạc bộ thể thao chuyên nghiệp được xem là một trong những ngành nghề kinh doanh có điều kiện, tức là các tổ chức và cá nhân kinh doanh loại ngành nghề này cần phải đáp ứng được các điều kiện theo quy định của pháp luật. Và phải thực hiện thủ tục đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền, hoạt động kinh doanh này được đặt dưới sự quản lý chặt chẽ của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Khi xảy ra thiệt hại trong quá trình kinh doanh thì phải chịu trách nhiệm bồi thường theo quy định của pháp luật. Căn cứ theo quy định tại Điều 584 của Bộ luật dân sự năm 2015 có quy định về căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại. Theo đó, trách nhiệm bồi thường thiệt hại sẽ phát sinh dựa trên một số căn cứ cơ bản sau:
– Người nào có hành vi xâm phạm đến tính mạng, có hành vi xâm phạm đến sức khỏe, có hành vi xâm phạm đến danh dự và nhân phẩm, có hành vi xâm phạm đến uy tín, tài sản, quyền và lợi ích hợp pháp của người khác và gây ra thiệt hại cho người đó thì sẽ phải chịu trách nhiệm bồi thường theo quy định của pháp luật;
– Gây ra thiệt hại sẽ không phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong trường hợp thiệt hại đó xảy ra là do sự kiện bất khả kháng hoặc hoàn toàn do lỗi của bên bị thiệt hại, chưa trường hợp các bên có thỏa thuận khác hoặc pháp luật liên quan có quy định khác;
– Trong trường hợp tài sản gây ra thiệt hại thì những đối tượng được xác định là chủ sở hữu hoặc người chiếm hữu hợp pháp tài sản đó sẽ phải có trách nhiệm bồi thường thiệt hại, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác.
Bên cạnh đó, căn cứ theo quy định tại Điều 591 của Bộ luật dân sự năm 2015, sau được hướng dẫn tại Điều 8 của Nghị quyết 02/2022/NQ-HĐTP của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao về việc hướng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ luật Dân sự về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, có quy định về thiệt hại do tính mạng bị xâm phạm. Theo đó, thiệt hại do tính mạng được xâm phạm được xác định cụ thể như sau:
– Thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm theo quy định tại Điều 590 Bộ luật Dân sự năm 2015, sau được hướng dẫn tại Điều 7 của Nghị quyết 02/2022/NQ-HĐTP của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao về việc hướng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ luật Dân sự về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, được tính từ thời điểm người bị thiệt hại bị xâm phạm sức khỏe cho đến thời điểm người đó chết;
– Chi phí hợp lý cho việc mai táng đối với các khoản tiền: Khoản tiền sử dụng để mua quan tài, khoản tiền phục vụ cho chi phí hỏa táng và chôn cất, khoản tiền mua các vật dụng cần thiết cho việc khâm liệm, khăn tang, hương, nến, hoa, thuê xe tang và các khoản chi khác phục vụ cho việc chôn cất hoặc hỏa táng nạn nhân theo phong tục, tập quán địa phương. Không chấp nhận yêu cầu bồi thường chi phí cúng tế, lễ bái, ăn uống, xây mộ, bốc mộ;
– Tiền cấp dưỡng cho những đối tượng mà người bị thiệt hại có nghĩa vụ cấp dưỡng hoặc nuôi dưỡng trước khi chết được xác định như sau:
+ Mức cấp dưỡng căn cứ vào thu nhập, căn cứ vào khả năng thực tế của người có nghĩa vụ cấp dưỡng và căn cứ vào nhu cầu thiết yếu của người được cấp dưỡng, nhưng không thấp hơn 01 tháng lương tối thiểu vùng tại nơi người được cấp dưỡng đang cư trú cho mỗi tháng;
+ Thời điểm cấp dưỡng được tính từ thời điểm người bị thiệt hại bị xâm phạm về sức khỏe;
+ Đối tượng được bồi thường tiền cấp dưỡng theo quy định được xác định là những người mà người bị thiệt hại có nghĩa vụ cấp dưỡng theo quy định của pháp luật hôn nhân gia đình.
Như vậy, chủ kinh doanh bể bơi để xảy ra hiện tượng trẻ tử vong trong bể bơi dịch vụ sẽ có trách nhiệm bồi thường như sau:
– Bồi thường do thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm được tính từ thời điểm người bị thiệt hại bị xâm phạm sức khỏe cho đến thời điểm người đó chết;
– Chi phí hợp lý cho việc mai táng theo như phân tích nêu trên;
– Tiền cấp dưỡng cho những người mà người bị thiệt hại có nghĩa vụ cấp dưỡng hoặc nuôi dưỡng trước khi chết;
– Thiệt hại khác do luật quy định.
2. Trẻ tử vong trong bể bơi dịch vụ, chủ kinh doanh bể bơi có bị truy cứu trách nhiệm hình sự không?
Chủ kinh doanh bể bơi hoàn toàn có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật khi có hiện tượng trẻ em từ vong trong bể bơi dịch vụ căn cứ theo quy định tại Điều 129 của Bộ luật hình sự năm 2015 về tội vô ý làm chết người do vi phạm quy tắc nghề nghiệp hoặc quy tắc hành chính. Tội vô ý làm chết người do vi phạm quy tắc nghề nghiệp hoặc quy tắc hành chính là trường hợp đặc biệt của tội vô ý làm chết người. Sự đặc biệt ở đây thể hiện ở hai điểm:
– Quy tắc an toàn bị vi phạm trong trường hợp phạm tội này là quy tắc nghề nghiệp hoặc quy tắc hành chính;
– Người phạm tội là người có nghĩa vụ phải tuân thủ quy tắc nghề nghiệp hoặc quy tắc hành chính đó.
Điều luật quy định nhiều khung hình phạt. Khung hình phạt cơ bản có mức phạt tù từ 01 năm đến 05 năm. Khung hình phạt tăng nặng có mức phạt tù từ 05 năm đến 12 năm được quy định cho trường hợp làm chết 02 người trở lên. Khung hình phạt bổ sung được quy định (có thể được áp dụng) là cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.
Như vậy, chủ kinh doanh bể bơi để xảy ra hiện tượng trẻ em chết đuối do lỗi của mình thì có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự với phạt tù từ 01 năm đến 12 năm.
3. Điều kiện kinh doanh đối với doanh nghiệp kinh doanh hoạt động thể thao dưới nước:
Căn cứ theo Điều 17 của Nghị định 36/2019/NĐ-CP của Chính phủ về việc quy định chi tiết một số điều của Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thể dục, thể thao, có quy định về điều kiện kinh doanh đối với doanh nghiệp kinh doanh hoạt động thể thao dưới nước, cụ thể như sau:
– Có nhân viên cứu hộ đáp ứng đầy đủ kĩ năng trong hoạt động thể thao dưới nước;
– Có cơ sở vật chất, trang thiết bị thể thao theo quy định tại Điều 14 của Nghị định 36/2019/NĐ-CP của Chính phủ về việc quy định chi tiết một số điều của Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thể dục, thể thao. Cụ thể là sẽ căn cứ theo Thông tư 03/2018/TT-BVHTTDL của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch quy định về cơ sở vật chất, trang thiết bị và tập huấn nhân viên chuyên môn đối với môn Bơi – Lặn;
– Đối với hoạt động thể thao trên sông, hoạt động thể theo trên trên biển, hoạt động thể theo trên trên hồ hoặc hoạt động thể theo trên suối lớn phải có xuồng máy cứu sinh.
Nếu như không đáp ứng được đầy đủ các điều kiện trên đây thì sẽ bị coi là hành vi kinh doanh không hợp pháp, nếu xảy ra thiệt hại sẽ phải chịu trách nhiệm tùy vào mức độ và hậu quả xảy ra trên thực tế.
Các văn bản pháp luật được sử dụng trong bài viết:
– Bộ luật Dân sự năm 2015;
– Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017);
– Nghị quyết 02/2022/NQ-HĐTP của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao về việc hướng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ luật Dân sự về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng;
– Thông tư 03/2018/TT-BVHTTDL của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch quy định về cơ sở vật chất, trang thiết bị và tập huấn nhân viên chuyên môn đối với môn Bơi, Lặn;
– Nghị định 36/2019/NĐ-CP của Chính phủ về việc quy định chi tiết một số điều của Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thể dục, thể thao.