Trên thực tế, hoạt động mua bán nợ của các ngân hàng Việt Nam đang hình thành như một sự cần thiết khách quan trong quá trình phát triển kinh tế xã hội, có lẽ hoạt động mua bán nợ là một trong những lĩnh vực rất mới tuy nhiên nó lại là một hoạt động kinh tế cơ bản của các ngân hàng thương mại. Vậy ngân hàng có quyền bán nợ cho bên thứ ba hay không?
Mục lục bài viết
1. Ngân hàng có quyền bán nợ cho bên thứ 3 không?
Trước hết, căn cứ theo quy định tại Điều 3 của Thông tư
Đồng thời, căn cứ theo quy định tại Điều 105 của Bộ luật dân sự năm 2015 có quy định về tài sản. Theo đó:
– Tài sản được xác định là vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản;
– Tài sản bao gồm động sản và bất động sản. Động sản và bất động sản trong trường hợp này có thể là tài sản hiện hữu hoặc tài sản hình thành trong tương lai.
Ngoài ra, căn cứ theo quy định tại Điều 450 của Bộ luật dân sự năm 2015 có quy định về mua bán quyền tài sản. Theo đó:
– Trường hợp mua bán quyền tài sản thì bên bán bắt buộc phải chuyển các loại giấy tờ cần thiết và làm thủ tục chuyển quyền sở hữu cho bên mua, bên mua theo đó sẽ có nghĩa vụ trả tiền cho bên bán theo sự thỏa thuận của các bên;
– Trường hợp quyền tài sản là quyền đòi nợ, bên bán cam kết đảm bảo khả năng thanh toán của người mắc nợ, thì bên bán bắt buộc phải liên đới chịu trách nhiệm thanh toán khoản nợ đó, nếu khi đến hạn mà người mắc nợ không trả hoặc trả không đầy đủ;
– Thời điểm chuyển quyền sở hữu đối với quyền tài sản được xác định là thời điểm bên mua nhận được các loại giấy tờ và tài liệu về quyền sở hữu đối với quyền tài sản đó, hoặc tính kể từ thời điểm các bên thực hiện thủ tục đăng ký chuyển quyền sở hữu tài sản tại cơ quan có thẩm quyền nếu pháp luật có quy định.
Theo đó, hoàn toàn có thể khẳng định quyền đòi nợ là quyền tài sản theo quy định của pháp luật, vì vậy hoàn toàn có thể chuyển giao cho bên thứ ba.
Như vậy, khi ngân hàng cho các khách hàng vay tiền, ngân hàng có quyền tài sản đó là quyền đòi nợ, và ngân hàng hoàn toàn được quyền bán quyền này cho người khác, cụ thể là bên thứ ba. Khi thực hiện thủ tục mua bán quyền đòi nợ cho bên thứ ba, các ngân hàng thương mại bắt buộc phải thực hiện thủ tục chuyển các loại giấy tờ cần thiết và chuyển quyền sở hữu cho bên mua, đồng thời bên mua sẽ phải trả tiền cho ngân hàng thương mại theo sự thỏa thuận của các bên.
Tuy nhiên cần phải lưu ý, trong trường hợp các ngân hàng thương mại cam kết đảm bảo khả năng thanh toán của những người mắc nợ, thì ngân hàng sẽ phải liên đới chịu trách nhiệm thanh toán khoản nợ đó nếu đến hạn, người mắc nợ vẫn không trả hoặc trả không đầy đủ số nợ đó.
2. Ngân hàng bán nợ cho bên thứ 3 cần tuân thủ theo nguyên tắc gì?
Theo như phân tích nêu trên, ngân hàng thương mại hoàn toàn có quyền bán quyền đòi nợ cho bên thứ ba. Tuy nhiên trong quá trình bán nợ cho bên thứ ba, ngân hàng cần phải tuân thủ theo một số nguyên tắc nhất định. Căn cứ theo quy định tại Điều 5 của Thông tư
– Hoạt động mua bán nợ phải phù hợp với quy định của pháp luật, không trái với nội dung quy định tại hợp đồng tín dụng, hợp đồng bảo đảm đã ký kết giữa bên bán nợ, bên bảo đảm và khách hàng;
– Hoạt động mua bán đó sẽ do các bên tự thỏa thuận với nhau dựa trên cơ sở thương lượng bình đẳng, tuân thủ đầy đủ quy định tại Thông tư 09/2015/TT-NHNN, và các văn bản quy phạm pháp luật khác có liên quan;
– Tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài chỉ được thực hiện hoạt động mua nợ khi được cơ quan có thẩm quyền đó là Ngân hàng nhà nước Việt Nam chấp nhận hoạt động mua nợ đó tại giấy phép thành lập và hoạt động của các tổ chức tín dụng, giấy phép thành lập của chi nhánh ngân hàng nước ngoài, đồng thời có tỷ lệ nợ xấu dưới 3%, ngoại trừ trường hợp muốn nợ theo các phương án tái cơ cấu đã được cơ quan có thẩm quyền phê duyệt. Trường hợp bán nợ thì không cần phải xin phép cơ quan có thẩm quyền đó là Ngân hàng nhà nước;
– Tổ chức tín dụng và chi nhánh ngân hàng nước ngoài cần phải ban hành quy định cụ thể, nội bộ về hoạt động mua bán nợ trước khi thực hiện thủ tục mua bán nợ trên thực tế;
– Tổ chức tín dụng và các chi nhánh ngân hàng nước ngoài mua nợ thì cần phải tuân thủ theo quy định của pháp luật về vấn đề đảm bảo an toàn trong hoạt động tổ chức tín dụng và chi nhánh ngân hàng nước ngoài;
– Bên bán nợ không được quyền mua lại các khoản nợ đã bán. Đồng thời, tổ chức tín dụng cũng không được phép bán nợ cho các công ty con của chính mình, ngoại trừ trường hợp bán nợ cho các công ty quản lý nợ và khai thác tài sản của các tổ chức tín dụng mẹ phù hợp với phương án tái cơ cấu đã được cơ quan có thẩm quyền phê duyệt;
– Công ty quản lý nợ và khai thác tài sản là công ty con của các tổ chức tín dụng sẽ chỉ được phép mua các khoản nợ của tổ chức tín dụng khác hoặc chi nhánh ngân hàng nước ngoài khi tổ chức tín dụng mẹ có tỷ lệ nợ xấu dưới 3%, ngoại trừ trường hợp mua nợ theo các phương án tái cơ cấu đã được cơ quan có thẩm quyền phê duyệt;
– Trường hợp bán một phần khoản nợ hoặc trong trường hợp bán một khoản nợ cho nhiều bên mua khác nhau, thì bên bán và bên mua cần phải thỏa thuận với nhau về tỷ lệ tham gia, phương thức thực hiện hoạt động mua bán, quyền và nghĩa vụ của các bên trong giao dịch, phân chia giá trị tài sản bảo đảm cho phần nợ đã được mua bán, các nội dung khác thể hiện cụ thể trong hợp đồng mua bán, đảm bảo phù hợp với quy định của pháp luật;
– Các khoản nợ được mua, bán cần phải được theo dõi và hạch toán kế toán đầy đủ, báo cáo thống kê theo đúng quy định của pháp luật.
3. Ngân hàng có được quyền chuyển giao nợ của người vay tiền cho bên thứ ba không?
Căn cứ theo quy định tại Điều 365 của Bộ luật dân sự năm 2015 có quy định về vấn đề chuyển giao quyền yêu cầu. Theo đó:
– Bên có quyền yêu cầu thực hiện nghĩa vụ hoàn toàn có thể thực hiện thủ tục chuyển giao quyền yêu cầu cho bên Thế quyền theo thỏa thuận, ngoại trừ các trường hợp sau:
+ Đối với quyền yêu cầu cấp dưỡng, yêu cầu bồi thường thiệt hại do hành vi xâm phạm đến tính mạng sức khỏe, danh dự nhân phẩm hoặc uy tín của người khác;
+ Bên có quyền và bên có nghĩa vụ thỏa thuận với nhau hoặc pháp luật liên quan có quy định về việc không được phép thực hiện thủ tục chuyển giao quyền yêu cầu.
– Khi bên có quyền yêu cầu chuyển giao quyền yêu cầu cho những người thế quyền, người thế quyền đương nhiên sẽ trở thành người có quyền yêu cầu. Việc chuyển giao quyền yêu cầu sẽ không cần sự đồng ý của các bên có nghĩa vụ. Người chuyển giao quyền yêu cầu bắt buộc phải thực hiện thủ tục thông báo bằng văn bản cho bên có nghĩa vụ về về việc chuyển giao đó, ngoại trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác. Trong trường hợp bên chuyển giao quyền yêu cầu không thông báo về việc chuyển giao cho bên có nghĩa vụ, mà phát sinh chi phí cho bên có nghĩa vụ, thì bên chuyển giao sẽ cần phải thanh toán các chi phí này.
Theo đó, ngân hàng thương mại hoàn toàn có thể thực hiện thủ tục chuyển giao quyền đòi nợ của người vay cho bên thứ ba, ngoại trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác hoặc pháp luật có quy định về việc không được phép chuyển giao quyền yêu cầu đó. Tuy nhiên cần phải lưu ý, ngân hàng thương mại khi thực hiện thủ tục chuyển giao quyền đòi nợ thì bắt buộc phải thông báo bằng văn bản cho bên còn lại biết về việc chuyển giao đó, nếu không thông báo mà phát sinh các chi phí có liên quan thì ngân hàng thương mại cần phải thanh toán các chi phí này.
Các văn bản pháp luật được sử dụng trong bài viết:
– Thông tư 09/2015/TT-NHNN của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về hoạt động mua, bán nợ của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài;
– Thông tư 18/2022/TT-NHNN của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư 09/2015/TT-NHNN ngày 17/7/2015 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về hoạt động mua, bán nợ của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài;
– Bộ luật Dân sự 2015.
THAM KHẢO THÊM: