Luật ngân hàng được nhận định là rất đa dạng và thú vị. Có hàng ngàn quy định và các ngân hàng phải bắt đầu với việc xác định cách áp dụng các quy định đó. Vậy Luật ngân hàng là gì? Đối tượng và phương pháp điều chỉnh? Hãy tìm hiểu nội dung này trong bài vết dưới đây:
Mục lục bài viết
1. Luật ngân hàng là gì?
Luật Ngân hàng là tổng hợp các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình Nhà nước tổ chức và quản lý hoạt động ngân hàng, các quan hệ về tổ chức hoạt động của các tổ chức tín dụng và hoạt động ngân hàng của các tổ chức khác.
Luật Ngân hàng tại Hoa kỳ nhận định nhiều cơ quan liên bang giám sát các quy định ngân hàng. Một ngân hàng hoặc tổ chức tài chính khác có thể tuân theo các quy định của Tổng công ty Bảo hiểm Tiền gửi Liên bang (FDIC), Hệ thống Dự trữ Liên bang hoặc Văn phòng Kiểm soát Tiền tệ (OCC). Các ngân hàng phải biết họ phải tuân thủ những quy định của liên bang và tiểu bang nào. Nhiều quy định ngân hàng liên bang được tìm thấy trong chương 12 của Bộ luật Hoa Kỳ.
Luật ngân hàng có thể tồn tại để đạt được nhiều mục tiêu. Một số mục tiêu này bao gồm:
– Cung cấp sự minh bạch cho người tiêu dùng
– Giảm thiểu rủi ro cho khách hàng ngân hàng
– Tránh lạm dụng ngân hàng cho các mục đích như rửa tiền
– Cho phép người tiêu dùng gửi ngân hàng một cách bí mật
– Ngăn chặn các tội phạm khác
– Ưu tiên cho vay ngân hàng theo các ưu tiên kinh tế, xã hội
– Cung cấp ngân hàng công bằng và cơ hội bình đẳng cho ngân hàng
-Ngăn chặn khủng bố
-Tạo ra các thông lệ đòi nợ công bằng
– Thực hiện các thỏa thuận thẻ tín dụng công bằng cho người tiêu dùng
– Ngăn chặn các ngân hàng cho vay không công bằng đối với những người trong cuộc như cán bộ và cổ đông chính
-Cho phép khách hàng đưa ra tranh chấp một cách hợp lý
– Các mục tiêu khác
Do những bất đồng trong quan điểm về các quy định ngân hàng phù hợp, một trong những lĩnh vực luật sư có thể hành nghề luật ngân hàng là trong lĩnh vực vận động hành lang và vận động chính phủ. Các ngân hàng và các tổ chức tài chính khác dựa vào luật sư để đánh giá luật ngân hàng được đề xuất và làm cho các nhà lập pháp biết vị trí của họ. Họ cũng ủng hộ những thay đổi đối với luật ngân hàng mà họ thấy là cần thiết.
Ngoài công việc vận động hành lang đại diện cho các tổ chức tài chính, luật sư ngân hàng còn làm việc cho nhiều nhà tuyển dụng và trong một số chuyên ngành cụ thể. Họ có thể làm việc cho cơ quan lập pháp để soạn thảo luật. Ngoài ra, các cơ quan chính phủ giám sát các ngân hàng cần có luật sư để giám sát việc tuân thủ và thực hiện các hành động thực thi đối với những người bị cáo buộc vi phạm.
Các luật sư ngân hàng cũng làm việc trong khu vực tư nhân. Các quy định về ngân hàng rất nhiều và phức tạp. Tất cả các ngân hàng dù có quy mô khiêm tốn đều cần một đội ngũ pháp lý chuyên trách để giải thích, quản lý và tuân thủ đầy đủ các luật ngân hàng. Luật sư tư nhân có thể là nhân viên của các ngân hàng, hoặc họ có thể làm việc cho một công ty luật và ký hợp đồng với ngân hàng để cung cấp các dịch vụ pháp lý. Hầu hết các ngân hàng thuộc bất kỳ quy mô đáng kể nào đều thuê luật sư tư vấn nội bộ để cung cấp các dịch vụ pháp lý toàn thời gian.
Các luật sư tư nhân giúp các ngân hàng bằng cách giải thích và thực hiện luật. Các quy định về ngân hàng thường xuyên thay đổi và các ngân hàng phải cập nhật những thay đổi. Các luật sư phải làm việc với nhân viên ngân hàng để phát triển hệ thống quy định và thực hiện đào tạo cho nhân viên để giúp họ tuân thủ các quy định ngân hàng.
Các ngân hàng cũng cần luật sư riêng để bảo vệ trước những cáo buộc về hành vi sai trái. Mặc dù hầu hết các công việc ngân hàng không liên quan đến kiện tụng chính thức, các luật sư đại diện cho các ngân hàng chống lại các cáo buộc về hành vi sai trái có thể tự mình tham gia các thủ tục tố tụng chính thức tại tòa án. Các thủ tục tố tụng này thường có tỷ lệ cược cao.
2. Luật ngân hàng được dịch sang tên tiếng Anh là gì?
Luật ngân hàng được dịch sang tên tiếng Anh là: Banking law.
3. Đối tượng và phương pháp điều chỉnh của Luật Ngân hàng:
3.1. Đối tượng điều chỉnh của Luật Ngân hàng:
Trên thực tế thì các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình quản lý nhà nước được nhận định là đối tượng đều chỉnh luật ngân hàng hay thâm chí là các quan hệ xã hội nảy sinh từ hoạt động lưu thông tiền tệ, tín dụng, ngân hàng của các tổ chức tín dụng và các chủ thể khác tham gia vào lĩnh vực ngân hàng cũng được xem là đối tượng dùng dể điều chỉnh luật này. Dựa trên thực tế thì chia các đối tương ngân hàng ra thánh các nhóm khác nhau dựa trên các căn cứ khác nhau để hình thành nên chúng.
Thứ nhất, khi dựa trên căn cứ khái niệm, đối tượng điều chỉnh của luật ngân hàng bao gồm hai nhóm:
– Các đối tương được nhận diện là quan hệ quản lý Nhà nước về tiền tệ và hoạt động Ngân hàng: là các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình Nhà nước thực hiện hoạt động quản lý Nhà nước đối với hoạt động Ngân hàng trong nền kinh tế.
– Các đối tương được nhận diện là quan hệ tổ chức và kinh doanh Ngân hàng là các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình tổ chức, thực hiện hoạt động kinh doanh Ngân hàng của các tổ chức tín dụng và các tổ chức nước ngoài khác có hoạt động ngân hàng.
Thứ hai, khi dựa trên căn cứ vào nội dung điều chỉnh các quan hệ pháp luật ngân hàng, đối tượng điều chỉnh của luật ngân hàng có thể được phân biệt thành những nhóm quan hệ xã hội như sau:
– Nhóm đối tương được nhận diện là các quan hệ tổ chức và hoạt động của Ngân hàng nhà nước Việt Nam
– Nhóm đối tương được nhận diện là các quan hệ tổ chức và hoạt động của các tổ chức tín dụng
– Nhóm đối tương được nhận diện là các quan hệ kinh doanh ngân hàng của các tổ chức khác, tuy không phải là tổ chức tín dụng nhưng được phép thực hiện một số hoạt động thuộc lĩnh vực ngân hàng.
3.2. Phương pháp điều chỉnh của Luật Ngân hàng:
Đối với quy định về phương pháp điều chỉnh, luật ngân hàng thì thông thường các nhà làm luât đều sử dụng hai phương thức chủ yếu để tác động vào các quan hệ xã hội thuộc đối tượng điều chỉnh của mình là: phương pháp mệnh lệnh phục tùng và phương pháp bình đẳng thỏa thuận giống như các văn bản pháp luật khác cũng dựa trên các phương pháp này.
Thứ nhất, đối với phương pháp mệnh lệnh phục tùng
Đối với những quan hệ xã hội có sự tham gia của ngân hàng nhà nước Việt Nam với vai trò là cơ quan quản lý nhà nước trong lĩnh vực tiền tệ và hoạt động ngân hàng thi chủ yếu các nhà làm luật sẽ áp dụng phương pháp mệnh lệnh phục tùng trong các quan hệ xã hội này.
Đồng thời, cần lưu ý một nội dung đó chính là việc tham gia vào những mối quan hệ mang tính chất nghiệp vụ, không thể hiện chức năng quản lý nhà nước của các ngân hàng nhà nước Việt Nam thì lúc này phương pháp mệnh lệnh phục tùng sẽ không được áp dụng, đó là một trong những lưu ý mà người làm luật cần phải hướng tới.
Phương pháp bình đẳng, thỏa thuận
Một phương pháp điều chỉnh của luật ngân hàng áp dụng chủ yếu đối với nhóm quan hệ diễn ra liên quan đến giao dịch tiền tệ tín dụng, ngân hàng được thiết lập đó chính là phương pháp bình đẳng thỏa thuận. Phương pháp này được thiết lập trên cơ sở bình đẳng giữa các chủ thể là ngân hàng, kể cả mối quan hệ giữa ngân hàng trung ương với vai trò là trung tâm thanh toán, luân chuyển tiền tệ, làm dịch vụ tiền tệ cho Chính phủ.
Các văn bản pháp luật có liên quan đến bài viết: