ILP gọi đầy đủ là Import Licensing Procedures, đây là hiệp định có ý nghĩa cực kỳ quan trọng trong hoạt động nhập khẩu. Là hiệp định được hình thành giữa các quốc gia thuộc WTO, tạo ra một cơ chế mới trong cấp phép nhập khẩu. Cùng tìm hiểu hiệp định ILP là gì? Nội dung, tinh thần hiệp định và cam kết của các bên?
Mục lục bài viết
1. Hiệp định ILP là gì?
Hiệp định ILP hay còn gọi là hiệp định về thủ tục tục cấp giấy phép nhập khẩu, được ký kết giữa các nước thành viên của WTO, cho biết việc cấp phép nhập khẩu phải đơn giản, minh bạch và có thể đoán trước được để không trở thành trở ngại cho thương mại.
Ví dụ, thỏa thuận yêu cầu các chính phủ phải công bố đầy đủ thông tin để các thương nhân biết cách thức và lý do tại sao các giấy phép được cấp. Nó cũng mô tả cách các nước nên
2. Nội dung, tinh thần hiệp định và cam kết của các bên trong hiệp định ILP:
2.1. Nội dung Hiệp định ILP:
Hiệp định ILP được tổ chức thành 8 điều, trong đó:
– Điều 1: Quy định chung.
– Điều 2: Cấp phép nhập khẩu tự động.
– Điều 3: Cấp phép nhập khẩu không tự động.
– Điều 4: Thể chế.
– Điều 5: Thông báo.
– Điều 6: Tham vấn và giải quyết tranh chấp.
– Điều 7: Xem xét.
– Điều 8: Quy định cuối cùng.
Trong các điều khoản này, cần chú ý một số nội dung:
– Theo mục đích của Hiệp định này, cấp phép nhập khẩu được định nghĩa là thủ tục hành chính được sử dụng cho hoạt động của chế độ cấp phép nhập khẩu, yêu cầu nộp đơn hoặc tài liệu khác (không phải là yêu cầu cho mục đích hải quan) cho cơ quan hành chính có liên quan như một điều kiện trước để nhập khẩu vào lãnh thổ hải quan của Thành viên nhập khẩu..
– Các Thành viên phải đảm bảo rằng các thủ tục hành chính được sử dụng để thực hiện các chế độ cấp phép nhập khẩu phù hợp với các quy định liên quan của GATT 1994, bao gồm các phụ lục và giao thức, như được giải thích bởi Hiệp định này, nhằm ngăn ngừa những sai lệch thương mại có thể phát sinh từ hoạt động không phù hợp của các thủ tục đó, có tính đến các mục đích phát triển kinh tế và các nhu cầu tài chính và thương mại của các nước Thành viên đang phát triển.
– Các quy định về thủ tục cấp phép nhập khẩu phải mang tính trung lập trong áp dụng và được thực hiện một cách bình đẳng và công bằng.
+ Mọi quy định, thông tin liên quan đến thủ tục nộp đơn xin giấy phép nhập khẩu như điều kiện để người, công ty và tổ chức được quyền nộp đơn xin cấp phép, cơ quan hành chính cấp phép, danh mục hàng hóa phải xin phép nhập khẩu phải được công bố, đồng thời phải được thông báo cho Uỷ ban Cấp phép Nhập khẩu nói tại Điều 4 (trong Hiệp định này gọi là “Uỷ ban”) với cách thức sao cho chính phủ các nước và nhà kinh doanh có thể nắm bắt được. Nếu điều kiện cho phép, các Thành viên phải thông báo công khai các thông tin trên trong thời hạn 21 ngày trước khi các qui định, yêu cầu có hiệu lực, tuy nhiên trong mọi trường hợp không được muộn hơn ngày có hiệu lực. Tất cả các trường hợp ngoại lệ hoặc thay đổi qui định liên quan đến thủ tục cấp phép nhập khẩu hay danh mục các mặt hàng phải xin phép phải được công bố theo cách thức và trong cùng thời hạn nói trên. Các Thành viên phải gửi cho Ban Thư ký một bản sao tài liệu công bố trên.
+ Các Thành viên muốn đưa ra nhận xét bằng văn bản đều có cơ hội để thảo luận về các nhận xét đó khi có yêu cầu. Thành viên liên quan phải xem xét cẩn trọng các nhận xét và kết quả thảo luận.
– Mẫu đơn xin cấp phép nhập khẩu hoặc mẫu xin gia hạn giấy phép nhập khẩu, nếu có, phải càng đơn giản càng tốt. Khi nộp đơn xin phép nhập khẩu, có thể phải cung cấp một số tài liệu và thông tin được coi là tối cần thiết để thực hiện đúng chế độ cấp phép nhập khẩu.
– Thủ tục nộp đơn và gia hạn giấy phép, nếu có, phải càng đơn giản càng tốt. Người nộp đơn được cho phép có một khoảng thời gian hợp lý để nộp đơn xin cấp phép nhập khẩu. Nếu có xác định ngày hết hạn nhận đơn, thì khoảng thời hạn nộp đơn phải tối thiểu là 21 ngày với quy định về việc gia hạn thời hạn này trong trường hợp khi chưa nhận đủ số đơn trong thời hạn này. Người làm đơn chỉ phải nộp đơn cho một cơ quan hành chính duy nhất. Trong trường hợp nhất thiết phải tiếp cận nhiều cơ quan hành chính, thì số cơ quan này không được quá 3 cơ quan.
– Không được phép từ chối đơn xin cấp phép chỉ vì những lỗi nhỏ về tài liệu mà không làm thay đổi những số liệu cơ bản thể hiện trên tài liệu đó. Trong trường hợp có sai sót hoặc nhầm lẫn trong tài liệu hoặc thủ tục, thì hình phạt không được nặng hơn mức cần thiết để cảnh cáo nếu những sai sót hoặc nhầm lẫn này không nhằm mục đích gian lận hoặc do quá cẩu thả.
– Không được từ chối hàng nhập khẩu đã được cấp phép chỉ vì có sự khác biệt nhỏ về giá trị, số lượng hay trọng lượng so với con số ghi trên giấy phép do sự chênh lệch phát sinh trong quá trình giao hàng, do tính chất của việc bốc hàng dời và những khác biệt nhỏ khác phù hợp với thực tiễn thương mại bình thường.
– Người có giấy phép có quyền tiếp cận nguồn ngoại hối cần thiết để thanh toán hàng nhập khẩu cấp phép theo cùng điều kiện giống như đối với các nhà nhập khẩu hàng không cần giấy phép.
– Các qui định của Điều XXI của GATT 1994 sẽ được áp dụng đối với các ngoại lệ vì lý do an ninh;
– Những quy định trong Hiệp định này không yêu cầu các Thành viên phải tiết lộ thông tin bí mật ảnh hưởng đến việc thực thi pháp luật hoặc những thông tin trái ngược với lợi ích công cộng hoặc làm tổn hại đến lợi ích thương mại chính đáng của những doanh nghiệp nhà nước hoặc tư nhân cụ thể.
Trên đây là toàn bộ nội dung được ghi nhận tại Điều 1 Hiệp định ILP, từ những quy định này cũng phần nào thể hiện được ý định, định hướng trong các điều khoản tiếp theo của Hiệp định. Về cơ bản, nội dung được biểu đạt trong Hiệp định là chi tiết, cụ thể, ràng buộc được trách nhiệm của các quốc gia thành viên trong việc thực hiện các thủ tục cấp phép nhập khẩu, tiến tới xóa bỏ các rào cản thương mại.
2.2. Tính thần Hiệp định ILP:
Tinh thần của Hiệp định ILP được thể hiện ngay trong phần mở đầu của Hiệp định này, theo đó:
– Mong muốn tiếp tục đạt được các mục tiêu của GATT 1994;
– Có tính đến các nhu cầu thương mại, phát triển và tài chính cụ thể của các nước đang phát triển các thành viên;
– Công nhận tính hữu ích của việc cấp phép nhập khẩu tự động cho các mục đích nhất định và không nên sử dụng giấy phép để hạn chế thương mại;
– Thừa nhận rằng giấy phép nhập khẩu có thể được sử dụng để thực hiện các biện pháp như những biện pháp đã được thông qua theo các quy định liên quan của GATT 1994;
– Công nhận các quy định của GATT 1994 khi chúng áp dụng cho các thủ tục cấp phép nhập khẩu;
– Mong muốn đảm bảo rằng các thủ tục cấp phép nhập khẩu không được sử dụng theo cách trái với các nguyên tắc và nghĩa vụ của GATT 1994;
– Thừa nhận rằng dòng chảy thương mại quốc tế có thể bị cản trở do việc sử dụng không phù hợp thủ tục cấp phép nhập khẩu;
– Tin chắc rằng cấp phép nhập khẩu, đặc biệt là cấp phép nhập khẩu không tự động, phải được được thực hiện một cách minh bạch và có thể dự đoán được;
– Thừa nhận rằng các thủ tục cấp phép không tự động sẽ không còn mang tính hành chính nữa gánh nặng hơn mức hoàn toàn cần thiết để thực hiện các biện pháp liên quan;
– Mong muốn đơn giản hóa và mang lại sự minh bạch cho các thủ tục và thông lệ hành chính được sử dụng trong thương mại quốc tế và để đảm bảo việc áp dụng và quản lý công bằng và hợp lý thủ tục và thực hành;
– Mong muốn cung cấp một cơ chế tham vấn và nhanh chóng, hiệu quả và công bằng giải quyết các tranh chấp phát sinh theo Hiệp định này.
Tình thần này chi phối tới mọi nội dung của Hiệp định cũng như chi phối tới hoạt động thực tế của các quốc gia thành viên. Tinh thần của hiệp định là cái mà Hiệp định mong muốn đạt được và phải được thể hiện trong đó nhằm xác định đúng hướng đi của các quốc gia.
2.3. Cam kết của các bên trong Hiệp định ILP:
Các bảo lưu có thể không được thực hiện đối với bất kỳ điều khoản nào của Thỏa thuận này mà không có sự đồng ý của các Thành viên khác.
– Luật pháp trong nước
(a) Mỗi Thành viên phải đảm bảo không muộn hơn ngày WTO có hiệu lực. Thỏa thuận cho nó, sự phù hợp của luật pháp, quy định và thủ tục hành chính của nó với các quy định của Hiệp định này.
(b) Mỗi Thành viên sẽ thông báo cho Ủy ban về bất kỳ thay đổi nào trong luật và quy định của mình liên quan đến Thỏa thuận này và trong việc quản lý các luật và quy định đó.
Các cam kết trên đây có ý nghĩa cực kỳ quan trọng, thể hiện quan điểm, bình đẳng, ý chí của quốc gia trong việc tự nguyện tham gia ký kết Hiệp định, đồng thời ràng buộc trách nhiệm của các quốc gia khi Hiệp định có hiệu lực.