Quan điểm hoàn thiện pháp luật về bảo đảm quyền con người trong áp dụng các biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự.
Quyền con người rất phong phú và đa dạng, kể từ khi Liên hợp quốc ra đời đến nay, một hệ thống đồ sộ các quyền con người đã được ghi nhận bởi pháp luật quốc gia và pháp luật quốc tế. Bảo vệ và thúc đẩy quyền con người trước hết là trách nhiệm, nghĩa vụ của các Nhà nước, song cũng là quyền và trách nhiệm của mọi tổ chức, cá nhân. Đây là những vấn đề được quy định trong pháp luật của hầu hết quốc gia. Để bảo đảm quyền con người, cần xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật phù hợp với các điều ước quốc tế, tính phù hợp với thực tế quốc gia và bảo đảm việc thực thi pháp luật bằng nhiều biện pháp, cơ chế cụ thể. Qua đó nhằm bảo vệ các quyền khỏi bị xâm phạm, thúc đẩy việc thực hiện và phát triển quyền con người.
Quyền con người trong áp dụng cưỡng chế thi hành án dân sự bao gồm nhiều quyền cơ bản như quyền tài sản, quyền an toàn tính mạng, thân thể, quyền nhà ở, quyền mức sống tối thiểu, quyền công bằng trước pháp luật… Để bảo đảm các quyền này, trước tiên cần sự hoàn thiện của hệ thống các văn bản pháp luật, qua đó quy định cụ thể các quyền, trách nhiệm và nghĩa vụ của các chủ thể có liên quan trong việc thực hiện quyền và bảo đảm thực hiện quyền. Theo quan điểm cá nhân, việc bảo đảm quyền con người trong áp dụng các biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự cần các yếu tố cụ thể sau:
Thứ nhất, hoàn thiện hệ thống pháp luật bảo đảm quyền con người trong trong cưỡng chế thi hành án dân sự cần quán triệt chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước Việt Nam về quyền con người.
“Ở Việt Nam, Đảng Cộng sản Việt Nam và Nhà nước đã xác định những tư tưởng và đường lối chỉ đạo về quyền con người làm cơ sở cho việc bảo vệ và thúc đẩy các quyền con người trên thực tế. Nhìn chung, có thể thấy rằng, các quan điểm, chính sách của Đảng, Nhà nước Việt Nam về quyền con người được hình thành, đúc rút từ các yếu tố như lịch sử, truyền thống, bản sắc văn hóa Việt Nam; nền tảng lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh; những nguyên tắc và tiêu chuẩn quốc tế về quyền con người; thực tiễn và những yêu cầu đặt ra trong công cuộc đổi mới, hội nhập kinh tế quốc tế và xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân. Các quan điểm này được thể hiện trong các văn kiện của Đảng (Cương lĩnh chính trị, Nghị quyết, Chỉ thị…) và văn kiện của các cơ quan nhà nước (Báo cáo của Chính phủ, Sách trắng của Bộ Ngoại giao…). Tuy nhiên, các quan điểm được thể hiện tập trung nhất trong Chỉ thị số 12/CT/TW ngày 12-7-1992 về vấn đề quyền con người và quan điểm, chủ trương của Đảng ta và Chỉ thị số 44-CT/TW ngày 20-7-2010 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về công tác nhân quyền trong tình hình mới và một số văn kiện của Nhà nước như Chỉ thị số 41/2004/CT-TTg ngày 02-12-2004 của Thủ tướng Chính phủ về tăng cường công tác bảo vệ, đấu tranh về nhân quyền trong tình hình mới, Quyết định số 366/QĐ-TTg ngày 14-3-2011 của Thủ tướng Chính phủ về kế hoạch triển khai thực hiện Chỉ thị số 44-CT/TW của Ban Bí thư [10]. Nội dung của các văn kiện này tập trung vào một số vấn đề cụ thể như sau:
(i) Quyền con người là giá trị chung của toàn nhân loại, là thành quả của cuộc đấu tranh lâu dài qua các thời đại của nhân dân lao động và các dân tộc bị áp bức trên thế giới, là thành quả cuộc đấu tranh của loài người làm chủ thiên nhiên. Quan điểm này cũng được gián tiếp phản ánh trong hệ thống văn kiện pháp lý về quyền con người do LHQ và các tổ chức liên chính phủ khác thông qua từ trước tới nay, thể hiện ở việc xác định tính phổ biến của quyền con người. Theo đó, quyền con người là những gì bẩm sinh, vốn có của con người và được áp dụng bình đẳng cho tất cả mọi thành viên trong gia đình nhân loại, không có sự phân biệt đối xử vì bất cứ lý do gì như chủng tộc, dân tộc, giới tính, tôn giáo, độ tuổi….
(ii) Quyền con người mang tính giai cấp trong một xã hội có phân chia giai cấp. Mặc dù về bản chất quyền con người là những giá trị chung của toàn nhân loại, là sự kết tinh của những giá trị văn hóa tốt đẹp nhất của tất cả các dân tộc sau một quá trình phát triển lịch sử lâu dài, song vấn đề quyền con người đã luôn mang tính chính trị và bị chính trị hóa. Do đó việc giải thích và áp dụng quyền con người thường thể hiện rất rõ sự khác biệt về ý thức hệ, cụ thể các nước tư bản thường nhấn mạnh các quyền dân sự, chính trị trong khi các nước xã hội chủ nghĩa thường đề cao quyền kinh tế, xã hội, văn hóa.
(iii) Quyền con người vừa có tính phổ biến, vừa có tính đặc thù, phụ thuộc vào truyền thống, đặc điểm và trình độ phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội của mỗi quốc gia. Theo đó, khi tiếp cận và xử lý các vấn đề quyền con người cần kết hợp hài hòa các chuẩn mực, nguyên tắc chung của pháp luật quốc tế với những điều kiện đặc thù về lịch sử, chính trị, kinh tế – xã hội, các giá trị văn hóa, tôn giáo, tín ngưỡng, phong tục tập quán của nước ta.
(iv) Quyền con người và quyền dân tộc cơ bản là thống nhất. Theo đó, quyền thiêng liêng, cơ bản nhất của con người là quyền sống trong độc lập, tự do, tự quyết của dân tộc mình.
(v) Quyền con người có nguồn gốc tự nhiên song phải được pháp luật quy định. Ở đây pháp luật vừa là phương tiện để ghi nhận, vừa là công cụ để hiện thực hóa và bảo vệ các quyền tự nhiên của con người. Thông qua pháp luật, không chỉ quyền con người, quyền công dân mà cả những nghĩa vụ của những chủ thể có liên quan được xác lập, tạo thành khuôn khổ pháp lý cho việc tôn trọng, thực hiện và bảo vệ các quyền cơ bản của con người.
(vi) Quyền dân chủ, tự do của mỗi cá nhân không tách rời nghĩa vụ và trách nhiệm. Dân chủ phải đi đôi với kỷ cương, pháp luật. Về vấn đề này, Điều 29 UDHR cũng quy định việc hưởng thụ các quyền và tự do của mình gắn liền với nghĩa vụ, có thể bị hạn chế do luật định, nhằm bảo đảm quyền và tự do của người khác, bảo đảm các yêu cầu chính đáng về đạo đức, trật tự công cộng và phúc lợi chung trong một xã hội. (vii) Quyền con người cần được tôn trọng và bảo đảm một cách bình đẳng. Theo đó, về nguyên tắc không có quyền nào được coi là có giá trị hơn quyền nào, việc tước bỏ hay hạn chế bất kỳ quyền con người nào đều tác động tiêu cực đến nhân phẩm, giá trị và sự phát triển của con người.
(viii) Tôn trọng, bảo vệ và thúc đẩy quyền con người trước hết là trách nhiệm mỗi quốc gia. Để làm được điều này, các quốc gia phải có trách nhiệm xây dựng hệ thống pháp luật trong nước phù hợp với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật quốc tế và cơ chế thực thi các quy định pháp luật đó.
(ix) Bảo vệ và thúc đẩy quyền con người gắn liền với việc bảo vệ và thúc đẩy hòa bình, ổn định, an ninh, bình đẳng và cuộc sống phồn vinh ở mỗi quốc gia và trên thế giới. Nhìn chung, không chỉ là quan điểm của Đảng và Nhà nước ta, theo quan điểm của cộng đồng quốc tế thì để hiện thực các quyền con người, đặc biệt là các quyền kinh tế, xã hội, văn hóa thì cần có những nguồn lực vật chất mà chỉ có thể có được nhờ sự tăng trưởng kinh tế.
Thực tế chính minh, tăng trưởng kinh tế không thể có được trong bối cảnh hỗn loạn, bất ổn định về chính trị, chia rẽ do bất bình đẳng trong xã hội.
(x) Đối thoại và hợp tác quốc tế và yêu cầu cần thiết, khách quan để bảo vệ và thúc đẩy quyền con người. Theo đó, đối thoại và hợp tác quốc tế vừa là đòi hỏi của quá trình hội nhập quốc tế, vừa giúp tăng cường hiểu biết lẫn nhau, vừa là cơ hội để Việt Nam có thể học hỏi kinh nghiệm của các nước trong xây dựng và thực thi pháp luật để bảo đảm quyền con người.
(xi) Bảo vệ và thúc đẩy quyền con người là mục tiêu của Đảng và Nhà nước Việt Nam, là yêu cầu trong xây dựng Nhà nước pháp quyền và là động lực cho việc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Như vậy, hoàn thiện pháp luật Việt Nam nói chung và pháp luật về bảo đảm quyền con người trong cưỡng chế thi hành án nói riêng trên cơ sở các quan điểm của Đảng và Nhà nước là một yêu cầu tất yếu, khách quan. Chỉ khi chứa đựng những tư tưởng chỉ đạo đó thì pháp luật quyền con người trong cưỡng chế thi hành án dân sự mới có thể phát huy được hiệu quả trên thực tế, qua đó tiếp tục được nghiên cứu, bổ sung và phát triển nhằm hoàn thiện hơn nữa, phù hợp với thay đổi của thời đại. Hệ thống quan điểm, chính sách pháp luật của Đảng và Nhà nước là đường lối, kim chỉ nam không chỉ cho các cơ quan có vai trò xây dựng, ban hành các văn bản quy phạm pháp luật trong cưỡng chế thi hành án, mà còn là định hướng đúng đắn trong tiếp tiếp cận, thực thi, đóng góp ý kiến của các cơ quan thi hành án dân sự thông qua quá trình thực hiện các quy định pháp luật về cưỡng chế thi hành án, thực hiện các biện pháp cần thiết để bảo vệ quyền con người của người phải thi hành án, người được thi hành án và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan. Qua đó, đường lối của Đảng, hệ thống pháp luật của Nhà nước từng bước được hoàn thiện, thể chế hóa vào các quy định pháp luật chuyên ngành về thi hành án dân sự. Các văn bản thường xuyên được bổ sung, sửa đổi, tạo cơ sở pháp lý vững chắc để việc bảo vệ, thực thi, ngăn chặn, xử lý các hành vi xâm phạm quyền con người.
Thứ hai, xây dựng hệ thống pháp luật bảo đảm quyền con người trong cưỡng chế thi hành án phải bảo đảm tính đồng bộ, thống nhất trong hệ thống pháp luật, phù hợp với các cam kết quốc tế về quyền con người.
Có thể thấy rằng, trong quá trình xây dựng, phát triển đất nước, việc nâng cao nhận thức về việc đánh giá đầy đủ, đúng đắn về việc bảo đảm các quyền cơ bản của con người đòi hỏi phải có một hệ thống pháp luật hoàn thiện, đồng bộ và thống nhất. Việc này yêu cầu một hệ thống pháp luật nói chung và pháp luật về bảo đảm quyền con người trong cưỡng chế thi hành án dân sự nói riêng phải có tính hiệu lực, hiệu quả thể hiện ở chỗ: các quy định có liên quan phải nhất quán, không chồng chéo, mâu thuẫn với nhau; đồng thời cần có sự thống nhất giữa các quy định này với các loại văn bản khác có liên quan. Bên cạnh đó, cần khắc phục triệt để tình trạng các văn bản pháp luật có liên quan đến quyền, nghĩa vụ của người dân trong các quá trình hoạt động tố tụng, thi hành án và trong chính các quan hệ xã hội hàng ngày còn mâu thuẫn, khó áp dụng và thi hành trên thực tế. Ngoài ra, việc quy định các văn bản dưới luật, các văn bản hướng dẫn, thi hành luật còn mang tính “thời vụ” dẫn đến việc cập nhật và nắm bắt để vận dụng chưa được kịp thời và đạt hiệu quả cao trên thực tế. Đây là thực trạng chung đối với hệ thống pháp luật của Việt Nam nói chung và liên quan đến lĩnh vực cưỡng chế thi hành án dân sự nói riêng.
Pháp luật là công cụ sắc bén và hiệu quả nhất để Nhà nước quản lý, điều chỉnh xã hội hiệu quả. Do đó, các quy định của pháp luật phải thống nhất với Hiến pháp, các đạo luật có liên quan cho đến các văn bản dưới luật, các văn bản hướng dẫn thi hành luật nhằm tạo thuận lợi cho việc áp dụng pháp luật về thi hành án, hạn chế đến mức tối đa những khó khăn, vướng mắc trong quá trình nhận thức và áp dụng; tránh việc hiểu sai, hiểu chưa đúng, chưa đầy đủ hoặc lợi dụng các sơ hở,thiếu sót để trục lợi, vi phạm pháp luật về quyền con người… Việc tốt các yêu cầu này là cơ sở và tiền đề để tạo điều kiện cho các chính sách pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự được các cơ quan, tổ chức thực hiện và tuân thủ nghiêm minh. Trong quá trình hội nhập với nền kinh tế quốc tế, song song với việc Việt Nam cần phải tăng cường sự giao lưu, học hỏi để tiếp thu có chọn lọc các thành tựu về mọi mặt của đời sống xã hội thì hệ thống pháp luật của Việt Nam cũng cần phải có tham khảo, nghiên cứu để xây dựng một hệ thống pháp luật bao gồm các quy định tương thích, có sự thống nhất, phù hợp với các quy định có liên quan của luật pháp quốc tế, qua đó góp phần nâng cao hơn nữa đối với hệ thống pháp luật nói chung và liên quan đến lĩnh vực quyền và bảo đảm quyền con người trong cưỡng chế thi hành án dân sự nói riêng. Thực tế thời gian vừa qua cho thấy rằng Việt Nam đã và đang chủ động, ngày càng tích cực tiếp cận, nghiên cứu, tìm hiểu và tham gia vào các văn kiện pháp lý quốc tế, cam kết quốc tế. Việc quan trọng và khó khăn nhất đó là việc nội luật hóa, điều chỉnh các quy định pháp luật quốc gia phù hợp, tương thích với các tiêu chuẩn pháp lý quốc tế. Các chuẩn mực pháp lý quốc tế đặt ra những tiêu chuẩn tối thiểu về đáp ứng các quyền con người. Trách nhiệm về bảo đảm quyền con người được ghi nhận trong các văn kiện pháp lý và buộc các chủ thể có liên phải áp dụng các biện pháp thích hợp để thực hiện tại quốc gia của mình. Các quyền con người phải được bảo vệ thông qua việc cam kết xây dựng hệ thống pháp luật quốc gia phù hợp với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật quốc tế, đặc biệt có tính đến điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội để bảo đảm cho người dân được thụ hưởng quyền một cách tốt nhất, tăng cường hợp tác trên cơ sở đối thoại bình đẳng, xây dựng, tôn trọng, không can thiệp vào công việc nội bộ, hướng đến mục tiêu chung là thúc đẩy, bảo vệ ngày càng tốt hơn quyền con người nói chung và quyền con người trong áp dụng các biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự nói riêng.
Nhận thức được hội nhập quốc tế, hợp tác đối thoại giữa các quốc gia là một yêu cầu khách quan và cần thiết để thúc đẩy và bảo vệ quyền con người, Việt Nam cũng đang tiến hành hội nhập một cách sâu rộng, tích cực tham gia các điều ước quốc tế về quyền con người. Cho đến nay, các Điều ước quốc tế về nhân quyền trong lĩnh vực này mà Việt Nam là thành viên như Công ước Quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa năm 1966 (gia nhập năm 1982); Công ước Quốc tế về các quyền dân sự và chính trị 1966 (gia nhập năm 1982); Công ước Chống tra tấn và các hình thức đối xử hoặc trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hoặc hạ nhục con người năm 1984 (gia nhập năm 2015)… Trong quá trình đó, hệ thống pháp luật thi hành án dân sự đã có những điều chỉnh tích cực để bảo đảm phù hợp với các tiêu chí pháp lý quốc tế. Những quy phạm quốc tế về quyền con người được xây dựng và thể hiện khá chi tiết trong các quy định pháp luật về quyền và nghĩa vụ của người phải thi hành án, người được thi hành án, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan và của cả chính chủ thể thực hiện thi hành án, qua đó thể hiện vai trò tích cực của Việt Nam trong việc thực hiện các cam kết quốc tế. Tuy nhiên, việc phải chịu nhiều ảnh hưởng và tác động bởi các điều kiện về chính trị, kinh tế và trình độ phát triển cũng như các giá trị văn hóa, việc bảo đảm quyền con người trong cưỡng chế thi hành án dân sự ở Việt Nam có những đặc trưng riêng biệt… Hoàn thiện hệ thống pháp luật nói chung và về bảo đảm quyền con người nói riêng bên cạnh việc phải dựa trên nhận thức phù hợp, tương thích với các chuẩn mực pháp lý quốc tế thì phải tính đến sự phù hợp với hoàn cảnh, điều kiện cụ thể của đất nước. Có như thế thì pháp luật mới có tính khả thi và tồn tại được trong điều kiện của đất nước, bảo đảm quyền con người trong cưỡng chế thi hành án dân sự mới có thể hiện thực được trên thực tế.
Thứ ba, xây dựng hệ thống pháp luật bảo đảm quyền con người trong cưỡng chế thi hành án phải phù hợp với điều kiện thực tiễn của Việt Nam
Trong những năm vừa qua, các vấn đề về quyền con người nói chung và quyền con người trong cưỡng chế thi hành án dân sự nói riêng đã được Đảng và nhà Nhà nước quan tâm và bảo đảm thực hiện tốt hơn. Luật THADS ra đời năm 2008, được sửa đổi năm 2014 được xem là bước ngoặt đánh dấu bước phát triển quan trọng trong hoạt động lập pháp của Nhà nước ta, thể hiện sự quan tâm của Đảng và Nhà nước trong nỗ lực hoàn thiện hơn nữa các quy định có liên quan nhằm thể hiện rõ nét chính sách nhân đạo, ưu việt của Nhà nước nhằm góp phần đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp, xây dựng Nhà nước pháp quyền. Luật đã có nhiều bổ sung quan trọng theo hướng nâng cao, trọng, bảo đảm đầy đủ, triệt để hơn quyền con người trong hoạt động thi hành hình phạt tù. Thực tiễn thi hành pháp luật cũng cho thấy rằng, việc tổ chức thực hiện quyền con người của các chủ thể tham gia cưỡng chế thi hành án mặc dù còn một số hạn chế tuy nhiên đã đạt được nhiều kết quả đáng ghi nhận, đạt hiệu quả cao, đầy đủ các quyền cơ bản về nơi ở, mức sống, an toàn thân thể, tính mạng,… của người bị áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự. Chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, chấp hành viên thực hiện cưỡng chế thi hành án dân sự ngày càng được nâng cao, cải thiện, trình độ nghiệp vụ chuyên môn cao, thực hiện đúng các quy định pháp luật, tính khách quan, công minh, tận tâm, chí công vô tư… góp phần quan trọng vào việc bảo đảm quyền con người của đương sự.
Bên cạnh các kết quả đạt được, cũng còn tồn tại một số hạn chế phát sinh chính từ thực tiễn áp dụng pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự. Mặc dù Luật THADS đã được sửa đổi bổ sung năm 2014, tiếp tục ban hành Nghị định 33/2020/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều
Từ các phân tích trên, thấy rằng việc bảo đảm quyền con người trong cưỡng chế thi hành án dân sự ở Việt Nam là một vấn đề cần đòi hỏi phải có sự kết hợp đồng bộ, hài hòa của nhiều yếu tố, mỗi một yếu tố đều có vai trò quan trọng, ảnh hưởng trực tiếp đến tiến trình chung. Vấn đề quan trọng đặt ra ở đây là nhận thức, đánh giá được một cách đầy đủ, đúng đắn để từ đó triển khai thực hiện có hiệu quả trên thực tế.