Có thể thấy dân chủ trực tiếp là hình thức quan trọng để nhân dân thực hiện quyền lực của mình, có vai trò quan trọng trong nền dân chủ đương đại. Vậy khái niệm dân chủ trực tiếp? Hình thức dân chủ trục tiếp ở việt Nam?
1. Khái niệm dân chủ trực tiếp:
Dân chủ thực sự hay dân chủ thuần túy (pure democracy) là hình thức nhà nước mà trong đó mỗi công dân của một quốc gia trực tiếp biểu quyết thông qua luật pháp của quốc gia đó thay vì cử ra các đại diện nhằm tán thành những luật đó.
Dân chủ thực sự được đặc trưng bằng ba trụ cột chính là:
+ Quyền xây dựng luật lệ
+ Trưng cầu dân ý bao hàm cả trưng cầu dân ý bắt buộc để nhân dân biểu quyết phản đối việc áp dụng pháp luật
+ Bãi nhiệm thông qua việc đưa kiến nghị hoặc trưng cầu dân ý để nhân dân có quyền phế truất những người đã bỏ phiếu bầu ra.
2. Hình thức dân chủ trực tiếp ở việt Nam:
Các hình thức dân chủ khác được biểu hiện thông qua những quyền căn bản của công dân trong
2.1. Quyền tham gia quản lý nhà nước và xã hội:
Trong thực tế, đây là hình thức đã trở thành thông lệ của các hoạt động dân chủ ở xã hội ta. Mỗi khi quyết định và những vấn đề trọng đại của quốc gia và xã hội, trước khi thông qua quyết định, Nhà nước đều tổ chức trưng cầu ý kiến đóng góp của mọi tầng lớp nhân dân. Với hình thức dân chủ này, người dân tự mình tham gia đóng góp ý kiến vào những đường lối, chính sách và luật pháp của Nhà nước. Bằng cách như vậy mà trí tuệ của nhân dân ảnh hưởng lên những quyết định của Nhà nước. Nhằm đóng góp nhiều ý kiến hữu ích cho việc thiết lập một xã hội dân chủ, bình đẳng, ổn định chính trị, tăng trưởng kinh tế – xã hội và có quyền tham gia tích cực vào mọi quy trình ra quyết định quan trọng trong công tác quản lý nhà nước.
Điều 28, hiến pháp 2013 có ghi rõ ràng. Công dân có quyền tham gia quản lý nhà nước xã hội, được thảo luận ý kiến với cơ quan nhà nước giải quyết những vấn đề của các địa phương và trong nước.
– Quyền tham gia kiến vào công việc chung của nhà nước, của ngành đó, cấp nào và cơ quan đơn vị chủ quản.
+ Bàn bạc góp kiến các văn bản, chính sách của nhà nước, vào chương trình an sinh xã hội.
+ Góp kiến dự thảo pháp lệnh, dự thảo nghị định + địa phương có thể góp vào chương trình, kế hoạch phát triển về kinh tế xã hội của cấp huyện hay xã đó. Quyền tham gia vào cơ quan nhà nước.
+ Góp các hoạt động của cơ quan nhà nước: ứng cử, bầu cử
+ Tham gia thành lập một số tổ chức đoàn thể (HS tham gia Đoàn, Đội, . ..)
– Quyền tham gia hoạt động của cơ quan nhà nước.
Cách thể hiện quyền tham gia quản lí nhà nước, quản lí xã hội của công dân Trực tiếp: khi người dân tham gia giải quyết những vấn đề của nhà nước, bàn bạc, đóng góp ý kiến và giám sát hoạt động của lãnh đạo cơ quan và cán bộ, công chức nhà nước.
2.2. Quyền được biểu quyết khi Nhà nước tổ chức trưng cầu ý dân:
Trưng cầu ý dân là việc Nhà nước tổ chức cho công dân được tự quyết định đối với các vấn đề trọng đại của quốc gia.
Điều 29 Hiến pháp 2013 quy định: “Công dân đủ mười tám tuổi trở lên có quyền bỏ phiếu khi Nhà nước tổ chức trưng cầu ý dân.” Theo cuốn Đại từ điển Tiếng việt do Nhà xuất bản Đại học quốc gia Hồ Chí Minh ấn hành lần thứ 13 thì “Trưng cầu được hiểu là đưa ra lấy ý kiến của số đông một cách có tổ chức nhằm làm căn cứ khi đưa ra quyết định vấn đề gì”. Trưng cầu ý dân là lấy ý kiến nhân dân thông qua việc tổ chức bỏ phiếu cho nhân dân tự quyết định. Ở Việt Nam, về khía cạnh chính trị, theo
Quy định về độ tuổi này là thích hợp vì người từ mười tám tuổi trở lên được xem là người thành niên, đã phát triển toàn diện, hoàn chỉnh về thể chất, sức khoẻ, trí tuệ và tinh thần; có đủ khả năng tự thực hiện các quyền và nghĩa vụ công dân.
Tuy nhiên, không phải ngẫu nhiên mà các nhà nghiên cứu và nhiều người còn quan ngại trong việc thực hiện biện pháp trên khi Nhà nước có quy định tiến hành trưng cầu dân ý, nhưng cũng không nói cụ thể vấn đề nào sẽ được đưa vào cuộc trưng cầu dân ý. Trong điều kiện ở nước ta hiện nay, những điều kiện về chính trị, xã hội, văn hoá, giáo dục, trình độ chính trị – pháp luật của nhân dân. .. nói chung, không phải là không có cơ sở để thực hiện, tuy nhiên so sánh với các quốc gia phát triển, rõ ràng cũng không phải là hoàn toàn phù hợp.
2.3. Quyền bầu cử, ứng cử của công dân:
Quyền bầu cử và quyền ứng cử là những quyền tự do căn bản của công dân đối với đời sống xã hội, theo Hiến pháp, nhân dân thực hiện hình thức trực tiếp ở mỗi nơi và trên phạm vi cả nước. Căn cứ theo điều 27, Hiến pháp năm 2013 nêu rõ: Công dân đủ mười tám tuổi trở lên có quyền bầu cử và đủ hai mươi mốt tuổi trở lên có quyền ứng cử vào Quốc hội hoặc Hội đồng nhân dân. Việc thực hiện những quyền trên do pháp luật. Công dân có thể tự ứng cử đại biểu Quốc hội hoặc Hội đồng nhân dân nếu tự thấy mình có đủ tư cách theo quy định của pháp luật, có ý chí và nguyện vọng cống hiến để xây dựng đất nước.
Quyền bầu cử là quyền căn bản của công dân được Hiến pháp và pháp luật quy định để đảm bảo cho mọi công dân có đầy đủ tư cách thực hiện việc lựa chọn người đại biểu của mình tại cơ quan quyền lực nhà nước. Quyền của công dân không tách rời nghĩa vụ của công dân. Bầu cử là một thể chế dân chủ đã có từ lâu đời. Nhà nước phải là Nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Nhân dân tổ chức nên Nhà nước bằng việc lập ra những cơ quan quyền lực nhà nước. Thông qua bầu cử, nhân dân có thể bỏ phiếu chọn người đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của mình, để tự mình thực hiện quyền lực nhà nước, tham gia thiết lập cỗ máy nhà nước để điều hành mọi hoạt động quản lý xã hội.
Quyền ứng cử đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân là quyền của công dân được trở thành ứng cử viên khi thoả mãn đủ điều kiện theo quy định của pháp luật. Quyền ứng cử bao gồm quyền được tự ứng cử và quyền không ứng cử. Theo quy định của pháp luật, công dân nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam không phân biệt giai cấp, giới tính, địa vị xã hội, tín ngưỡng, tôn giáo, trình độ học vấn, nghề nghiệp, nơi sinh sống, đủ mười tám tuổi trở lên là có quyền bầu cử.
Có thể nói, ở nước ta, quyền bầu cử, ứng cử được xem là quyền chính trị đặc biệt quan trọng, là vinh dự, trách nhiệm và bổn phận của công dân. Công dân thực hiện quyền bầu cử, ứng cử hoàn toàn tự nguyện. Vì vậy, mỗi cuộc bầu cử đều có số lượng cử tri tham dự khá đông. Hình thức xác nhận quyền bầu cử của công dân là thẻ cử tri. Công dân có quyền bầu cử dù sinh sống lâu dài hoặc tạm thời ở đâu thì được điền tên vào danh sách cử tri ở địa phương ấy.
2.4. Công dân có quyền bãi nhiệm đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân:
Quyền bãi nhiệm của cử tri đối với đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân được quy định tại khoản 2 Điều 7 Hiến pháp năm 2013: “Đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân bị cử tri hoặc Quốc hội, Hội đồng nhân dân bãi nhiệm khi không còn phù hợp với sự lựa chọn của Nhân dân.”
Đại biểu Quốc hội là lớp người mà nhân dân đã bầu chọn nên, vì vậy Nhân dân có quyền giám sát hoạt động của họ với vai trò là những người đại diện theo ý chí, lợi ích, nguyện vọng của cử tri; giám sát năng lực, trách nhiệm thực hiện nhiệm vụ đại biểu cũng như thực hiện các chức vụ được phân công; giám sát phẩm chất chính trị, đạo đức, lối ứng xử của từng đại biểu.
Khi có những đại biểu không đáp ứng được ý chí, lợi ích, nguyện vọng của cử tri, kém năng lực và trách nhiệm đối với hoạt động đại biểu bị Nhân dân phát giác ra, có ý kiến, cần phải có các thiết chế chính trị đảm bảo để Nhân dân thực hiện quyền bãi nhiệm vị đại biểu dân cử này dù trực tiếp hoặc gián tiếp.
Căn cứ pháp lý:
– Hiến pháp năm 2013.