Chuyển nhượng quyền sử dụng đất của hộ gia đình. Điều kiện, thủ tục chuyển quyền sử dụng đất theo quy định hiện hành.
Chuyển nhượng quyền sử dụng đất của hộ gia đình. Điều kiện, thủ tục chuyển quyền sử dụng đất theo quy định hiện hành.
Tóm tắt câu hỏi:
Xin nhờ Luật sư tư vấn hộ tôi về vấn đề tranh chấp đất đai. Vụ việc như sau: Vào năm 2012 bố tôi có mua của 1 mảnh đất của một vợ chồng ông Nguyễn Đình Tiến. Trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất có ghi: Chứng nhận Hộ ông Nguyễn Đình Tiến được quyền sử dụng 100m2 đất thổ cư. Khi làm giấy mua bán có các chữ ký của các bên như sau: Bên mua (Nhà tôi): Là bố tôi: Lê Văn Đông. Bên bán: Chồng: Nguyễn Đình Tiến, Vợ: Nguyễn Thị Việt, Con trai thứ 2: Nguyễn Đình Tân (Gia đình ông Tiến có 2 người con). Có chứng thực của Ủy ban nhân dân xã. Vì một số lý do đến năm 2015 gia đình tôi mới mang Giấy tờ mua bán đất, Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của Hộ ông Tiến lên Phòng Tài nguyên môi trường Huyện để chuyển quyền sử dụng đất sang tên bố tôi. Nhưng cán bộ phòng Tài nguyên nói rằng phải có chữ ký của cả 2 người con thì mới có thể chuyển quyền sử dụng đất được. Gia đình tôi đã đến yêu cầu gia đình ông bà Tiến, Việt cung cấp đủ chữ ký nhưng họ không đồng ý. Sau đó đến tháng 12/2016 ông Tiến (chủ hộ) và cha tôi (bên mua) (ông Lê Văn Đông) đều lâm bệnh chết. Xin nhờ Luật sư tư vấn cách gì để giải quyết vụ việc trên? Gia đình tôi có thể chuyển quyền sử dụng đất sang tên tôi hoặc mẹ tôi không? Hoặc có thể đòi lại tiền được không. Và khi tôi làm đơn khởi kiện lên Tòa Án thì liệu Tòa án có giải quyết được không và hướng giải quyết của Tòa án sẽ như thế nào ạ? Xin Chân thành cảm ơn sự tư vấn của Luật sư…!?
Luật sư tư vấn:
Cám ơn bạn đã gửi câu hỏi của mình đến Ban biên tập – Phòng tư vấn trực tuyến của Công ty LUẬT DƯƠNG GIA. Với thắc mắc của bạn, Công ty LUẬT DƯƠNG GIA xin được đưa ra quan điểm tư vấn của mình như sau:
Bộ luật Dân sự 2005 quy định về các vấn đề liên quan đến tài sản chung của hộ gia đình như sau:
Điều 108. Tài sản chung của hộ gia đình
Tài sản chung của hộ gia đình gồm quyền sử dụng đất, quyền sử dụng rừng, rừng trồng của hộ gia đình, tài sản do các thành viên đóng góp, cùng nhau tạo lập nên hoặc được tặng cho chung, được thừa kế chung và các tài sản khác mà các thành viên thoả thuận là tài sản chung của hộ.
Điều 109. Chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung của hộ gia đình
1. Các thành viên của hộ gia đình chiếm hữu và sử dụng tài sản chung của hộ theo phương thức thoả thuận.
2. Việc định đoạt tài sản là tư liệu sản xuất, tài sản chung có giá trị lớn của hộ gia đình phải được các thành viên từ đủ mười lăm tuổi trở lên đồng ý; đối với các loại tài sản chung khác phải được đa số thành viên từ đủ mười lăm tuổi trở lên đồng ý.
>>> Luật sư tư vấn pháp luật trực tuyến qua tổng đài: 1900.6568
Như thông tin bạn trao đổi, Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ghi quyền sử dụng thuộc về hộ ông Nguyễn Đình Tiến, tức quyền sử dụng đất này là tài sản chung của hộ ông Nguyễn Đình Tiến, những người thuộc hộ khẩu ở thời điểm được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đều có quyền sở hữu chung đối với tài sản này. Và khi tiến hành chuyển nhượng quyền sử dụng đất phải được đa số các thành viên từ đủ mười lăm tuổi đồng ý mới được coi là hợp pháp.
Tuy nhiên, bạn không nêu cụ thể ở thời điểm được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, và thời điểm chuyển nhượng, hộ ông Nguyễn Đình Tiến có bao nhiêu thành viên và các thành viên đã đạt độ tuổi mười lăm chưa? Trong trường hợp gia đình ông Tiến chỉ có 4 thành viên như bạn cung cấp là hai vợ chồng ông Việt và hai người con thì cần xem xét, người con còn lại không ký vào hợp đồng chuyển nhượng là đã đủ 15 tuổi ở thời điểm chuyển nhượng hay chưa và có đồng ý chuyển nhượng hay không? Nếu người con không ký này đã đủ 15 tuổi và không ký vào hợp đồng chuyển nhượng thì người đó có quyền đòi lại phần tại sản mà mình đáng ra được hưởng trong khối tài sản chung.
Ở thời điểm này, ông Tiến đã mất không đồng thời làm mất đi ý chí ban đầu của ông Việt khi chuyển nhượng phần tài sản của mình cho bố bạn khi còn sống. Trong trường hợp này, bạn có quyền khởi kiện ra Tòa án để Tòa án xác định về tính hợp pháp và có hiệu lực của Hợp đồng chuyển nhượng này. Theo quy định của Điều 135 Bộ luật Dân sự 2005, hợp đồng chuyển nhượng này có thể bị coi là hợp đồng vô hiệu một phần về phần của người con không ký vào hợp đồng chuyển nhượng, ba phần còn lại đã được những thành viên khác trong gia đình chấp thuận chuyển nhượng vẫn được coi là có hiệu lực.
Việc bạn có làm thủ tục sang tên Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hay lấy lại được tiền hay không phụ thuộc vào việc phần tài sản chuyển nhượng có hiệu lực đủ điều kiện để tách thửa theo quy định của Luật Đất đai 2013 hay không và gia đình bạn (những người thuộc hàng thừa kế thứ nhất của bố bạn) có còn muốn tiếp tục thực hiện hợp đồng này hay không?